Bài đã đưa lên blog này ngày 05-10-2014
Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy
nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Lê
Bá Thự dịch
Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm
sáng tác 18-8-2011. Nghĩa là nó được viết vào dịp tác giả Tadeusz Rozewicz chín
mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.
Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi rằng nhà văn này có một cách nhìn chính thống.Nguyên văn cả đoạn
“Năm 1992, hồi ký Cát bụi chân ai của ông đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.
Trong
hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi
là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá
là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.”
Tôi cho đây là một lời đánh giá chứng tỏ người viết không thật hiểu về các nhà văn Hà Nội sau 1945 nơi mà Tối sáng lẫn lộn…Những cách tồn tại khó khăn...Những tiếng nói lắp bắp Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe nhoẹt…
Chúng
tôi là thế. Nhưng ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?
Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về những cái dở của Tô Hoài, xưa nay người trong giới chúng tôi không
lạ. Nếu trong sinh hoạt cá nhân ông đã nổi tiếng là một ông già thực dụng tham
lam càm quắp, một con người rất trần tục, thì về chính trị nhiều khi ông cũng
cẩu thả cơ hội, dám làm đủ thứ việc mà chính ông rất khinh bỉ.
Có lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh phổ biến mà tôi tạm gọi là lang chạ đó (xem Chất lang chạ trong mỗi chúng ta in trong tập Những kiếp hoa dại ). Cái chất lang chạ này trong Tô Hoài cũng rất sẵn.
-- Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết rằng ông vốn là một nhà văn biết
gìn giữ lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không phải chỉ luôn luôn có hai con
người như nhiều người khác, rõ nhất là
Nguyễn Khải, là Chế Lan Viên… Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ
đợi thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về
các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông
không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa sợ.
Ông
cũng không manh động chọc ngoáy liều lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông
có sự tính toán hợp lý của mình. Thời gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ
ráo riết trong tư duy ông, khiến người ta có cảm tưởng ông bền bỉ đi trên con
đường đã chọn.
Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite
VN với Tô Hoài khi ông qua đời là khá chính xác:
Là nhà văn tham
gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều thập kỷ được rèn giũa kỹ năng
viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc chỉnh huấn tư tưởng, nhưng Tô
Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
Những năm
hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng gió tự do tư tưởng của Nhân văn Giai phẩm
đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông, giúp ông sáng tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó
bị trả giá bằng những bài phê bình gay gắt.
Sau
thời Đổi mới, ông cho ra liên tiếp ba cuốn truyện ký làm chấn động dư luận: Cát bụi chân ai,
Chiều chiều, Ba người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về những năm tháng cay nghiệt của
một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường lối vô sản, cải cách ruộng đất ở
nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản” trong hàng ngũ trí thức, nhà văn.
Bút pháp hồi tưởng
nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện thực giễu nhại cùng song hành...
đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một cảm hứng bột khởi, bùng vỡ bức
xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng bằng. Có thể nói Tô Hoài đã
chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình và cho bạn đọc.
Trong nhiều lần trò
chuyện với tôi, Tô Hoài hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc
nhiều nhà văn khác sẽ đi làm nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn
Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào
cũng trở thành nhà văn.
Hiếm hoi lắm, lại có những
lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi.
Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ
Hồ Biểu Chánh mà cái lần vào Dầu Tiếng 1942, ông đã ’”xông” tới tận nhà. Khoảng
cuối 1975, vào Nam, nếu như Nguyễn Tuân từ chối thì ông thản nhiên đến thăm Vũ
Bằng. Sau khi đi cải tạo về, ghé qua Hà Nội, Doãn Quốc Sỹ có đến tìm ông. Ông đã gặp nhiều người khác nữa. Nam có Bắc
có. Bên này bên kia. Ông cho người ta cảm tưởng là ông mãi coi những người ấy
là đồng nghiệp, muốn tên tuổi mình về sau được đặt bên các vị đó.
Tôi
biết là khi đề cập tới các chuyện đó, trong tâm trí Tô Hoài đang theo đuổi
một ý niệm riêng về cách tồn tại của người cầm bút. Ở cái quan
niệm riêng đó có phần chung nhưng cũng có phần xa lạ với cách hiểu của
người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách hiểu của ông cha ta trong quá
khứ.
Vậy
là cuộc đời ông bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn mượn ý tứ trong bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra mấy câu gọi là cảm đề hoặc đơn giản là một bản phỏng dịch tùy tiện:
Ông
chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là kẻ tự buộc dây vào mình
Ông
vốn dễ dãi và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì đến cùng
Ông
tham gia vào sự lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự lừa dối
Bao
phen ông gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng thẳng
Ông đã ra đi, nhưng -- nếu có một vài nhà văn thời này còn lại -- bao giờ
người ta vẫn phải kể tên ông.
Đoạn tin trên báo TT&VH sau đây của
nhà báo Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi nó là cái tin ngắn hay
nhất có liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:
Ở tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ tích cho NXB Kim Đồng với
những cái kết rất riêng của mình. Ở đó, Mỵ Châu không chết tức tưởi dưới lưỡi
gươm của An Dương Vương.
Cô
Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm, gửi cho dì ghẻ.
Hỏi vì sao viết vậy, [ trong nguyên văn
dùng chữ lão VTN xin phép bỏ ] nhà văn chỉ cười.
Rồi, ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện
sức khoẻ cho phép: “Tôi muốn viết về Cách
mạng tháng Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần chúng mà còn có cả những
chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo đang lúng túng không biết
chọn đường nào” (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-to-hoai-qua-doi-da-di-roi-mot-nguoi-ha-noi-cu
n20140707073753506.htm )
Tôi
nhớ lại tiểu thuyết Mười năm.
Nhất
là tôi nhớ lại tạp chí Tiên phong. Đây là tạp chí của Hội
Văn hóa cứu quốc in ra trong khoảng từ
11/1945 tới 12/46. Thời gian đó Tô Hoài là phóng viên của tờ Cứu quốc, nhưng cũng hay viết sang Tiên phong. Trong bài ký này Tô
Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn Tây với thói tham lam và bộ mặt
nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư cách phóng viên chiến tranh— ông ghi
nhận rằng gọi là Nam tiến song thực ra lúc đó cái chính là các
ông đã sống cái cảm giác ngao du lang bạt đầy chất yêng hùng.
Còn như nhìn vào mấy cuốn sách cuối đời của
Tô Hoài:
--Cát
bụi chân ai
viết về các sự kiện có liên quan tới những năm tháng tìm đường và những đầu
hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp người cầm bút cũ hồi Nhân văn –
Giai phẩm
--
Ba người khác viết về Cải cách ruộng đất. Trong cả tháng nay, nhân triển
lãm Cải cách ruộng đất, một số trang của Ba người khác được trích ra in
lại, cùng với nhật ký Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần Dần và các trích
đoạn trong Đèn cù.
Bây giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã hiểu con người nhất quán trong Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra, chắc không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ở mỗi thời điểm, ông cảm được rất sớm cái khoảng trống vừa được mở ra.Việc nắm bắt cơ hội ở ông đã thành một thứ năng khiếu.
Nhà
nghiên cứu người Nga M.M. Bakhtin thường cho rằng muốn hiểu biết một hiện tượng
nảo đó, ta không được đứng từ xa và có
con mắt kính cẩn; mà phải có lối tiếp cận suồng sã. Chữ suồng sã ở đây không
phải là đùa tếu lăng nhăng mà chính là cách tiếp cận gần gũi với hiện tượng,
đối thoại với chính các đối tượng bất chấp đó là đối tượng nào, cao hay thấp,
kể cả những cái mà người ta coi là cấm kỵ-- các nhân vật và các hiện tượng lịch
sử.
Một số tác phẩm nêu trên được coi như thành công của Tô Hoài, chính là nhờ ông đã có lối tiếp cận suồng sã rất nghiêm chỉnh đó.
Tôi
thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc thương khi đưa đám các nhà văn quen biết.
Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời
lận đận“, không khỏi có phần tôi chỉ hùa theo mọi người, nói những lời sáo.
Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả những người có tài nhất, ra đi khi đã hết lộc.
Có người đã ăn lạm vào phần của đám người đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn
thì có thể bảo cái phần tinh hoa của họ đã chết khi họ còn sống và bạn bè đồng
nghiệp chỉ đang đi sau những cái xác.
Riêng
với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra đi, tôi thầm nhủ với mình một điều xuất
phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.