VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Một hiện tượng của văn học hậu chiến ( tiếp)

Con người văn học ở  Dương Thu Hương như tôi biết thời kỳ 1985-90

1985 
Ghi chép linh tinh
20/2
 Họp ở nhà xuất bản Giáo dục, bàn về biên tập cuốn 20 truyện ngắn chọn lọc 1945-85. Cái điều làm mọi người buồn bã nhất, ấy là hiếm có truyện hay. Ông Đỗ Quang Lưu chê truyện còn thiếu action (hành động), truyện nói nhiều quá, truyện không hoàn chỉnh.
- Thời kỳ ta có nhiều truyện hay, vẫn là thời 55-64.
- Có nhiều tác giả đã thành danh như Tô Hoài, Bùi Hiển không có cái hay; cả Nguyễn Quang Sáng, cả Anh Đức (Tô Hoài chỉ ăn ở chi tiết)
- Có những người như Vũ Thị Thường lạc chất của mình( đáng lẽ là chất đời thường lại sang xã hội chính trị)
- Cấu trúc các truyện thường yếu, không mấy khi có sự gặp gỡ giữa nhân vật+ cốt truyện v.v...

 Riêng tôi đọc lại, còn thấy loại như Đỗ Chu, Dương Thu Hương có nhiều cảm quan lạc hậu. Đỗ Chu trì trệ trong cảm giác bằng lòng, hoà hợp, biết ơn. DươngThu Hương mới trong đại cương, nhưng trong chi tiết, vẫn là hôm nay. Ghét những người chỉ biết đến mình. Đề cao hy sinh, vì người khác. Sợ tiện nghi. Có những nét tạm gọi là ác.
Đúng là có một thời, cả một dân tộc kinh sợ hạnh phúc, vì cho rằng hạnh phúc khiến mình không còn chiến đấu được nữa. Những tiêu chuẩn thông thường ở con người dường như mất quyền tồn tại.
Trên cái nền chung này, Hương căm giận mấy cũng là vô ích.

21/2
Một chuyện nghe được về ông Thi do Hương kể cho Huy Phương, Huy Phương kể lại cho Nguyễn Thành Long.
Ông Nguyễn Đình Thi lên Quảng Bá sáng tác.
Quen như với một số người khác, mang cái mình mới viết sang đọc cho  Hương nghe, giọng lên bổng, xuống trầm, ra điều cảm động lắm. Vừa đọc được vài câu, bị Hương dội gáo nước lạnh.
- Thôi đủ rồi, chán cái giọng lên bổng xuống trầm tán gái của anh lắm rồi.
- Ồ, nhà văn gì côn đồ thế này.
- Ừ, côn đồ đấy, nhưng cầm đồ ra khỏi phòng này ngay đi.
Khi kể lại, Hương nói thêm: Tôi ăn lương ở Điện ảnh chứ đâu phải bên Hội nhà văn, tôi cần gì.

14/4
Những lần đối diện với Dương Thu Hương. Thoáng cảm thấy một nét gì sớm cũ càng, ở cái con người có vẻ đang chống phá lung tung đó. Cái miệng gồm hai hàm răng thật đều xít vào nhau toát lên một thoáng khiêu khích. Còn làm duyên làm dáng gì với nhau nữa. Không có thần tượng, không ai cứu  được ai trong cuộc đời này. Tuy vậy, khi tôi nói thẳng những sự thật tàn nhẫn ấy, thì Hương gật đầu.
- Đúng, tôi nhận là tôi phong kiến, cay nghiệt.... Viết xong là biết nó thuộc về ngày hôm qua rồi, hôm nay mình phải khác.
Tôi hay bảo Hương như kẻ dẫu sao cũng muốn hét lên một tiếng giữa mọi người; muốn ra sao thì ra, nhưng phải hét, thì mới chịu được.

Nguyễn Kiên:
--Dương Thu Hương là gì? Nó là sự phản ứng lại một thời. Một thời mọi thứ xuôi theo một kiểu. Bây giờ người ta không chịu thế. Người ta tập nói ngược lại. Loại trừ bọn phá hoại, bọn bành trướng, thì nó còn là tâm lý mọi người bình thường. Vì thế, mới có nó. Nó cứ nói tuốt luốt ra cả.
Đỗ Chu thì lông bông quá, nên không được.

12/6
  Hương hay bảo tôi là dân mặt trắng nhợt ra, vì chả đi đâu, chỉ đọc sách, giữa cuộc đời chỉ là dân típ hôi.
Nhàn:
-- Bây giờ bà Hương này, có tài rồi, nổi tiếng rồi, có nhà riêng rồi, bây giờ chỉ cần một gia đình yên ấm.
Nguyễn  Kiên cũng ngồi đấy, cười khẽ:
- Ông này âm lịch quá. Thời này còn nghĩ chuyện gia đình yên ấm. Cứ nổi tiếng là được rồi chứ cần gì.

        Nói chuyện với  Hương. Có cả Hách, Ân. Hương ngồi kể về hoàn cảnh của mình. Lấy chồng trong sự thúc ép, đang cô độc vì một kỷ luật vớ vẩn của lớp học. Lão Bằng này hay mò đến. Lão ta còn doạ không lấy lão sẽ băm chết. Cảm thấy bị lão ám quá, làm ào đi: “Anh về anh bảo mẹ anh tới đây”. Nhưng về với nhau được vài hôm là đánh vợ, mặc dù bây giờ vẫn yêu Hương, yêu ghê gớm.
 Hương:
-- Tôi ly thân với chồng 6 năm, ở riêng đã 2 năm. Nhiều đứa đến nhòm ngó chứ. Nhưng tôi không như Xuân Quỳnh. Tôi không việc gì phải toáy cả lên, sống thiếu đàn ông một hai tháng là không chịu nổi. Việc gì cũng phải trả giá của nó cả.
... Con gái chúng nó dở hơi lắm. Nhớ có lần đi hội, đêm ngủ với mấy con nhà thơ. Một đứa đọc thơ về anh hói, một đứa về anh rậm râu, đến tận 3 giờ mới thôi. Tôi bảo chúng nó, tao thì tao yêu lão bán phở còn hơn là hai lão già ấy. Thôi im đi cho tao ngủ. Thế mà hôm sau, về, còn thấy kể chuyện con Nhàn nó thẽ thọt nịnh chồng, thổi cơm nếp cho chồng ăn nữa.
Ở Hương thường là một thái độ lạnh lùng ghê rợn, khi nhìn vào đời tư của mọi người.
- Tôi có mấy đứa đàn em ở Sân khấu nó kể chuyện, khổ lắm, như ông Vũ, khao khát tình yêu, vẫn bị bọn con gái các nhà hát nó lừa cho đấy, những con loại đĩ giòi ra rồi, nhưng nó ỏn thót, nó xin vai. Mấy đứa đàn em tôi bảo khổ ông Vũ, có biết gì đâu? Còn như con mẹ Quỳnh, từng này tuổi còn cắt tóc ngắn, diện quần bò áo phông - chỉ loại con gái chưa có lớp mỡ ở bụng mới dám diện như vậy -- rồi đến ngồi cạnh chồng, lắc lắc cái đầu, như mười tám đôi mươi, chung quanh nó thấy chướng lắm. Nên bọn trẻ nó lại càng muốn trêu ngươi, để chứng tỏ cái quyền lực của nó. Là quyền trẻ, quyền đẹp chứ còn gì nữa. Tôi như con Quỳnh, tôi cứ sống đúng là tôi. Nhưng nó thì không dám, không chịu được. Mà già rồi còn gì.
Hách nói thêm, lắm lúc nhìn vào mắt Quỳnh, lòng đen nó cứ bạc xám ra, thấy già đi rõ quá. Chồng đi vắng là bần thần. Rồi kêu chán đời. Chồng về, lại kể những chuyện xót xa, tuy vẫn là đùa vui nhưng xót xa. Chẳng hạn như kể là hôm nọ, có con bé nào nó lại đến rủ Vũ đi xem. Quỳnh phải gầm lên: “Hôm qua, anh xuống ăn cơm nguội chỗ mẹ, anh thắt lưng bằng cái dây chuối [thực tế bằng dây thừng] thì có ai đến thăm anh không?”
Rồi bọn em chồng ở nhà, nó phải nói thêm vào nữa, mới thôi.
- Được cái Quỳnh nó còn trẻ, đi với nhau còn hợp.
- Trẻ gì mà! Vũ nó phải khó chịu chứ.

Hương kể về T. Ngày nào T. + Hương rất thân nhau. Hương hay cùng T. đến Thu Bồn. Gớm, một tình yêu tha thiết. Thấy Thu Bồn nó ra mà cả người nàng cứ run lên. Lần ấy, T. cho rằng Hương phải bám T. để đăng bài. Tôi mới đến tôi bảo lão Bổng. Tôi ỉa vào đăng bài ở chỗ này, chừng nào mà con T. nó còn làm biên tập ở đây. Không đăng thì đã chết ai?
Nhưng những lời Hương kể ghê gớm nhất là về Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài.
 Đúng là có chuyện mắng mỏ Thi, cái lần ở Quảng Bá (tôi đã ghi ở phần trên). Sau đó, Thi vẫn phải làm lành. Tô Hoài cũng vậy. Năm ngoái họ đi trại Đại Lải với nhau, Hương đã công kích Tô Hoài vuốt mặt không kịp. Nhân nói về một cô biên tập viên nào đó bên Kim Đồng, Tô Hoài chê trông như con voi già. Dương Thu Hương mới đả luôn, nhưng nó còn đỡ hơn cái con mẹ mà anh đã húp cả cặn. Thế là Tô Hoài lại cười hí hí. Lão toàn ngồi kể chuyện đi chơi cô đầu quỵt, rồi sợ tắc ống khói ra sao v.v. Trong đám ngồi đấy, chỉ có Nguyễn Minh Châu là nghếch sừng lên nghe. Thấy Hương nói đồng nghiệp nhiều khi tàn tệ, Nguyễn Kiên ngồi ngoài cũng phát cáu cơ mà. Nhưng hôm vừa rồi, nhân TV nó quay về các nhà văn, Tô Hoài lại đến làm lành với Thu Hương. Thế là Thu Hương lại đốp luôn: “ Từ giờ trở đi, bọn trẻ nó làm lãnh đạo chắc nó cũng không quá đáng đến nước húp hết cả phần anh em”. Nói thế là Tô Hoài chạnh lòng, lão đánh bài chuồn.


Nhìn vào tác phẩm
 Một cái gì rất cũ có mặt bên một cái gì rất mới. Những ngày ở Quảng Bình, sao không mang vào đây? Hình như, thấm những ngày đó quá, nên mới có phản ứng như bây giờ.
Đọc văn thấy có một sự công phẫn, kêu giời lên vì những cái xấu xa chung quanh. Nói tướng lên, chửi, vì đau quá (gợi nhớ tới trường hợp Vũ Trọng Phụng). Không tìm thấy một sự bình thản (vì kém văn hoá nền chăng?)
Thấy tởm đời sống nhưng nhìn chưa ra lối thóat.
 Có một mối hoài vọng ghê gớm về một quá khứ đã bị đánh mất (hình như có liên quan đến hoàn cảnh riêng).
Trong truyện, quá khứ của nhân vật thường  thơ mộng. Những con người nghị lực, quyết tâm, nhưng vướng víu đủ thứ. Tại cái thời kỳ lạ này chăng?
Ban mai yên ả kết luận bỏ lửng, chả giải quyết gì. Truyện có cái phía công thức của nó “anh là người lính”, nhưng thực ra vấn đề rộng hơn thế. Vấn đề của một xã hội đang rữa ra. Và con người hoàn toàn đơn độc. Chính tác giả cũng buồn vì không  chỉ ra một lối thoát tốt đẹp.
Trong tập Ban mai yên ả
- Những cánh buồm trong thành phố - bỏ lửng
- Chuyện một diễn viên - bỏ lửng
- Ban mai yên ả - bỏ lửng
Cuộc đời chưa cung cấp phương án giải quyết cho các tình huống trong  các tác phẩm này??

Một số mô típ thường thấy ở Dương Thu Hương.
- Chúng ta đã bỏ mất những gì tốt đẹp.
- Chúng ta chạy theo những cái vớ vẩn
- Chúng ta biến chất và thành ra một đống hoang tàn.
Truyện rất nhiều những chữ như “cứt nát” “tởm”...

Mối quan hệ với các nhà văn khác  
Với Đỗ Chu không chỉ có chuyện đồng hương. Sự căm ghét dành cho  Đỗ Chu (?) ở Dương Thu Hương có cái gì đó hơn là tức vặt.
Hương cảm thấy như là Chu lừa mình. Trong sự thất bại của Chu, Hương cảm thấy có sự thất bại của riêng mình. Nghề cũng đơn giản vậy, thế mà hồi ấy, mình đâu có biết!
-- Bà đau Đỗ Chu vì có lần có lúc, đã coi Đỗ Chu là thần tượng ?
-- Không, chính tôi đâu có thích Đỗ Chu.
-- Bà đừng lảng, phải thích thì bây giờ mới viết được như vậy. Cũng như bà hay nói là con nhà gia giáo, chỉ mới đổ đốn khi vào đời.
- Đúng, con nhà gia giáo, bây giờ đứt dây, nên hóa lung tung.

 Dương Thu Hương thường có lối viết hơi rề rà. Truyện của Hương không gọn nhưng vẫn có duyên.
Nhàn (nói với Nguyễn Minh Châu)
-- Các ông trước đây nói toàn loại truyện sạch sẽ thơm tho. Còn cái Hương bây giờ, nó như đứng giữa đống bùn mà nói, đứng trên bùn, day, nghịch đủ thứ, văng cả lên mặt các ông mới sướng.
Nó cảm thấy, nó phải vạch vôi các ông ra để viết cho hả giận. Sự tồn tại của con người, đôi khi chỉ còn có nghĩa là một sự căm tức. Tao biết tất cả chúng mày rồi. Đồ khốn nạn!
Ân:
- Chân dung người hàng xóm, tuy dở, có vẻ minh họa quá, nhưng vẫn có chỗ này được. Nó lật tẩy. Nó cho ta thấy cái thô bỉ, đằng sau cái bề ngoài.
Nhàn: Có phải chuyện Ban mai êm ả viết về ông Xuân Hoàng?
Hương: Hồi ấy in ra, ở Huế khối người ta kêu như thế đấy.

Cái điều tôi sẽ phải viết cho được khi nói về Xuân Quỳnh và Dương Thu Hương -- sự hạn chế của các tài năng hàng đầu. Họ chỉ đến thế.
Nhàn: Nên làm những tập truyện ngắn thật đều tay.
Dương Thu Hương: Tôi dạo này không thể viết ngắn được nữa. Hoá ra mọi chuyện cũng theo thói quen. Lúc đầu thì thơ, rồi truyện ngắn, sau nữa là truyện vừa.
Không ai nhớ tới sự đột ngột xuất hiện.  Người ta chỉ còn nói tới một nhu cầu.

1986
 Phác thảo chân dung.
Tuổi Tuất 1946.
Sự xuất hiện của một nhà văn thường khi có gì đó rất ngẫu nhiên. Trước khi anh ta viết, không ai mong chờ. Nhưng khi đã đọc nhà văn đó rồi, người ta cảm thấy không thể thiếu người đó được nữa. Sự ngẫu nhiên rút cục đã biến thành một nhu cầu tất yếu.
Việc tổng kết văn học ở ta thường chỉ mới được làm một cách dè dặt. Như đối với đời sống văn học 10 năm gần đây, chưa ai có sự đánh giá cho được đầy đủ, xem có những quy luật gì mới hình thành, những tác giả nào được đọc nhiều.
Nhưng trong nhiều lần thăm dò ngẫu nhiên, từ Tô Hoài, Vũ Cao,  … tới Nguyễn Khải,  Nguyễn Thành Long, --  khi nghe tôi hỏi có nhà văn nào được lưu ý hơn cả, nhiều người như cùng thống nhất trả lời Dương Thu Hương.
Không chỉ làm việc với sức trẻ, Dương Thu Hương còn mang vào đấy cả cái nhìn trẻ trung, cái phần nồng nhiệt trong yêu cầu, đánh giá, hồi tưởng lại ngày hôm qua, khao khát về những ngày mới.
Khác Đỗ Chu - một cách nhìn nhận mới về đời sống không dịu ngọt một chiều, mà khai thác chất ác của văn xuôi. Khác Lưu Quang Vũ - không màu mè, chiều đời.

19/2
 Bàn chuyện với Nguyễn Minh Châu
-  Dương Thu Hương vừa lại đây chơi, ngồi nói xa xả mấy tiếng đồng hồ, chửi rủa đủ loại người. Mình mới bảo loại như mày thì bố đứa nào dám lấy. Kể ra tả cái tởm của đời sống, thì không đứa nào viết bằng nó.
-- Không hiểu sao con mẹ này nó lại viết muộn thế? Hay là tại đây là loại của độc, càng để càng độc?
-- Nhưng nó cũng khôn lắm. Đến nhà nó, thấy nó rất đàng hoàng. Mà đối xử với loại Thụ, Hải Ninh cũng giỏi lắm.

Cô Thư (ở cơ quan Tác phẩm mới)
--Thanh niên bây giờ nhiều đứa đọc chị Hương lắm. Người ta thấy rõ Dương Thu Hương cải lương nhưng cứ thích. Vả lại, cái chính là đọc Dương Thu Hương thấy cuộc đời này chẳng ra làm sao cả, giáo sư, nhà văn... chả còn ai ra gì. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy một người đàn bà tốt. Nhưng trong Những chiếc lá chết, có một con mụ xấu còn hơn Thị Nở..
Những bất hạnh trong cuộc sống riêng tư đã xui khiến ngòi bút tác giả  đi theo hướng đó chăng. Bây giờ cứ cho chị Hương có một gia đình hạnh phúc là hết viết.

Cái tên tiêu biểu của Dương Thu Hương Nắng ấm cuối trời xuân . Một cái tên rất cải lương.
Nhàn: Truyện ấy rất giả.
Dương Thu Hương: Trong những cái in mấy năm nay, tôi chỉ thích có 2 cái Thợ làm móng tay Sói con. Chính tôi cũng chán Chân dung người hàng xóm.

Xuân Quỳnh: Dương Thu Hương đang có vụ bê bối nào đó. Con nó đi khắp nơi kiện.
Nhàn: Hương cũng hay bị chồng đánh lắm. Bà ấy kể thế.
Quỳnh: Với bà Hương, không đánh cũng không được.

Quân kể bà Hương theo một hoạ sĩ đến chơi. Lúc về lại chào vợ mình chào chị ạ, cám ơn chị. Sốt cả ruột, Quân bình luận.

Thường tôi hơi ngại, khi theo Hương đến các quán hàng ăn. Cứ gọi người ta xơi xơi như dân Hà Nội trước 1954 gọi con ở.
 Đọc văn sợ nhất lúc Hương nói đến các danh hoạ, các nhạc sĩ, các bản nhạc. Không đâu vào đâu cả. Thiếu cơ bản lại nói liều. Sao lại có một con người  tự tin như thế, vả lại hiếu thắng như thế.
Cái vẻ hấp dẫn vốn có bị cái chối, cái giả tạo làm mất đi.
Một sự căm ghét với lớp người đi trước.
Rất hay nói tới các nghệ sĩ:
Tháng ba chua chát (diễn viên)
Buổi sáng yên tĩnh (hoạ sĩ)
Ngôi nhà trên cát (nhà thơ, nhà báo)
Nhân vật nhạy cảm với cái đẹp, nhưng vẫn là dốt nát.

 Trong Những bông bần ly, Ngân hát khi đứng trước mộ Nghiêm:
Rồi mai đây khi xa vắng em hát khúc ca xưa
Anh sẽ trở về cùng hát bên em như hồi năm nào

Văn Dương Thu Hương gần như là lời than thở rền rĩ - dù không yếu đuối chút nào - nhưng cay đắng, tê tái, về một cái gì đã mất. Lớp người dưới đáy xã hội thì méo mó, ngu ngốc, y như trong Tchekhov. Những người khác có tâm hồn một chút, thì bất lực. Vả chăng, ở đây không có sự phân biệt giả tạo tốt và xấu đâu. Chỉ có hôm trước tốt và hôm sau xấu, lúc này tốt và lúc khác xấu, trong một con người.
Văn chương của cái thời người ta đã tận lực làm hết mọi việc -- chiến tranh --  và sau đó nhìn lại mình, thấy ngán ngẩm (Hãy nhớ bài viết về Dichkens của St Zweig)

Qua văn chương, tôi cũng có thể đoán những ngày đầu hoà bình sau (1975) để lại trong Dương Thu Hương một cảm giác choáng ngợp.
Đoạn mở đầu Loài hoa biến sắc: Lời tự thú công khai của cả một xã hội về sự hèn kém của mình. Thu Hương cũng nhiều mặc cảm, nhiều những complex. Hương ghét những người đàn bà ở phía bên kia --Sài Gòn trước 1975 -- hai ba  lần như vậy rồi (Ngôi nhà trên cát, Lâu đài, Cô gái bên kia hàng rào). Bị ám ảnh bởi nỗi thèm muốn một cái gì đó mà không bao giờ đạt tới.
Hương hay trở lại những chủ đề lật tẩy. Sự khác nhau giữa bên trong và bên ngoài. Sự đánh mất những cái tốt đẹp, phát hiện cái xấu ở một người quen.  Sự ghê tởm, phát hiện ở mình và người quanh mình những điều đáng ghét.
Về cuộc chiến tranh Việt Nam, đến nay người ta chỉ biết những người lính. Nhưng nó còn là cuộc chiến tranh của phụ nữ. Những người vợ ở hậu phương, người con gái thanh niên xung phong. Dương Thu Hương thường nói về chiến tranh như một nạn nhân.

 Trong nhà văn này bản tính con người mơ mộng vẫn còn, nhưng những giấc mộng đẹp không còn, nếu không muốn nói là nhiều ác mộng. Nhiều lang chạ, nhảm nhí. Có điều chưa đến nỗi chán tất cả. Biết chuyển nỗi chán vào công việc.
 Dễ không mấy người tả những trò chơi thuở trẻ giỏi giang và say mê như Dương Thu Hương. Nhưng không trò chơi nào cứu được con người. Sự thất vọng có đủ các mùi vị của nó, cay đắng, buồn phiền.
Rất giỏi tả những sinh hoạt trưởng giả, nó làm hại nhiều người. Nhưng có phải trong đó, vẫn có một thoáng như là ghen tị. Khi xấu, thì những người đàn bà ở đây, mới thật thảm hại (trừ nhân vật chính). Sự phản bội của các nhân vật trong truyện Thu Hương thật tự nhiên, không sao giải thích nổi, và người ta chỉ có thể chết lặng đi.
Từ sự phản bội của Quý với nhân vật Thía đến của Khang với Ngân, sự phản bội của Lý Xuân. Nhân vật Lý Xuân gợi ý về những kẻ thân thể quá phát triển, mà đời sống tinh thần nghèo nàn.
Câu hỏi đặt ra:
- Tại sao lại có một Dương Thu Hương như vậy?
Trước 1975 Dương Thu Hương chưa viết nhiều; nhưng có theo dõi có yêu ghét văn chương. Đã là có quá khứ, có kinh nghiệm.
Sống với chữ nghĩa một cách gan ruột cho nên không chịu theo cái đọc được mà muốn mang lại một cái khác nó.

Đọc Hành trình  ngày thơ ấu.
Phần 1. Có cái gì chắp vá lập bập nhưng cũng lạ. Trẻ con là một bọn hư đốn - Không thích ngoan, sẵn sàng phản ứng. Lũ trẻ con đáo để v.v..
Còn phần 2: rõ là một thứ chuyện lạ núi rừng, ở đó, nhà văn trổ tài quan sát. Đúng là ở phần 1, đã có nhiều chuyện người lớn.
Tác giả cho thấy trẻ con bị nhiều nỗi oan uổng ra sao.

Điều quan trọng là Hương có một cuộc sống trong chiến tranh, ngược lại không có quá khứ viết trong chiến tranh, khi sáng tác của các nhà văn bị khuôn theo một ít mơ ước ảo tưởng và những người sắc sảo nhất cũng thành lành hiền.
Cái tính cách mà Gorki hay nói: chất men bất phục tùng. Nhìn ra đời sống gian dối của những người lớn quanh mình.
Ngay trong phần 2, cũng có những nhân vật ác độc (người mợ của Dũng còm, lão già đến nhờ mua cao, chị Múi v..v.
Lối làm việc băm bổ viết nhiều loại cộng với một lối hành văn dềnh dàng, hay tả, kể v.v..
Có thể bảo chủ đề chính của truyện Dương Thu Hương là con người sau chiến tranh và những ao ước của họ về hạnh phúc. Những con người ấy vết thương đầy trên mình. Cái đó cắt nghĩa nỗi thèm muốn của họ.
Xoay về phía nào cũng thấy họ rất bất hạnh. Tìm mãi hạnh phúc không thấy, rút cục, vấn đề không phải như Nam Cao ngày nào “hạnh phúc là cái chăn hẹp” mà là nhiều câu hỏi lớn hơn.
- khả năng làm người.
- ý thức về đời sống.
- những quan niệm về bất hạnh cũng như hạnh phúc.
Bộ mặt của hạnh phúc mới đa dạng làm sao! Có những bất hạnh có ở mọi thời, lại có những bất hạnh mà chỉ thời này mới có! Những bất hạnh có thể nói là chói lên bảy sắc cầu vồng và tự nhiên, như người ta tự nghĩ ra vậy
 Một câu của Nguyễn Thi Thuỵ Vũ SG : Hạnh phúc có nhiều bộ mặt và tôi tự hỏi với tôi, hạnh phúc có bộ mặt gì?
Trong những thứ sặc sỡ, thì sặc sỡ nhất là mối quan hệ người người.Con người thường khó khăn trong việc tìm kiếm hạnh phúc. Mà đây lại là những cái  người ta không thể vay mượn hay xin xỏ. Ao ước cháy bỏng về hạnh phúc. Mơ ước theo đuổi từ tuổi thơ.

Dương Thu Hương hay nhớ lại những ngày hoà bình trước 1964, như Đỗ Chu,-- hay nhớ về kháng chiến. Nhưng không đúng, không có gì đúng. Sai chi tiết, sai ngôn ngữ trước 1964.
Trong Ban mai êm ả có nói tới táo Thiện Phiến. Thứ táo này không thể có trước 1970
Nhớ lại quá khứ. Một thứ hạnh phúc bị đánh mất.
Có một thế giới của Dương Thu Hương. Thế giới đó có cả màu sắc rực rỡ lẫn những mùi vị khai lợm, tanh tưởi, những hình ảnh mồ hôi lưu cữu, nhơ nhớp,  mặt xanh như đít nhái...Cần dùng phân tâm để lý giải.
Một loại nhân vật của Dương Thu Hương -- những con người có quá khứ đẹp, nay khốn khố. Bởi tất cả quá khứ đó đã mất đi nên nó mới đẹp đến thế. Cái vẻ đẹp ấy may lắm còn lại trong thiên nhiên, cây cỏ (Một bờ cây đỏ thắm)
Hình như Dương Thu Hương đã nói khá rõ nỗi hoài niệm khôn nguôi về một cái gì đã mất đó. Băt nguồn từ dòng văn nông thôn, nhưng lại nhanh chóng tìm thấy mình ở dòng văn đô thị. Niềm say mê đô thị tràn ngập Những cánh buồm trong thành phố.
Con người của thơ, nay từ bỏ chuyển sang cái nhìn kiểu văn xuôi.Từ cả tin sang hoài nghi. Một sự dang dở, quá độ, người của thời chiến, thời bình, người của đất nước những năm này và trên thế giới.
Chưa thể đạt tới sự bình tĩnh, như Tchekhov như Trifonov.
Một tiếng kêu về nỗi bất hạnh. Sống chung với chung quanh thật khó. Đôi lúc con người thật lạc lõng. Ai cũng có một gia đình nhưng đâu chúng ta đã biết sống trong gia đình!
Một câu hỏi -- nữ tính là gì?
- Tuy không nói ra, nhưng có phải với người đàn bà quan trọng nhất là gia đình. Từng người đàn bà chỉ là phản chiếu của những người đàn ông. Đau đớn, vì bị phản bội. Không tìm thấy mục đích sống.
Nhận xét sắc sảo, nhưng vẫn đau nhức một cảm giác người thua cuộc là mình. Không đưa cái bất hạnh lên thành siêu hình, chỉ thấy nó cấu véo mình hành hạ mình.
Nhà văn không được mang ý nghĩ mình cao hơn mọi người. Không tách ra mà cùng chuyến xe với mọi người mọi đau khổ.

                                  GHI CHÉP 1990

Những lời kể đây đó
Có lần ông Tuân đưa cho tôi cái các-vi-dít và bảo thêm 12 giờ trưa bao giờ cũng độc ẩm. Hương có thể đến chơi bất cứ ngày nào.
Tôi nhận, cám ơn, nhưng không đến.

Lúc bé, gia đình tôi với gia đình Đỗ Chu gần nhau, nó chuyên môn đến choẹ ông bố tôi. Bao nhiêu khách khứa của nó, ông bố tôi phải tiếp cả. Trong Các vĩ nhân tỉnh lẻ, viết về Đỗ Chu thế là còn hiền đấy chứ!

Nhàn: Tôi là người hay bị lừa lắm.
Hương: Tôi cũng thế. Thằng Bách nó vẫn bảo nó cho tôi ăn quả lừa luôn đấy chứ.
Nguyễn Đăng Mạnh: Quả lừa lớn mà Dương Thu Hương bị mắc là bị với vợ N.H.  Bà này bán cho Hương một loại thuốc. Tưởng là thuốc bổ, hoá ra thuốc tăng trọng lợn. Hương uống vào mặt mũi bị đầy mụn. (Ai đó kể bà H. từng đi mỹ viện, nó căng mặt ra, bây giờ hoá ra mắt hiếng)

Dương Thu Hương nói hồi gặp ở Moskva:
-- Tôi là phụ nữ, cho nên tôi mê hai cái. Một là ở nhà, tôi phải lo làm món ăn. Hai là, đi một đại hội festival như thế này, thế nào tôi cũng tìm được một vài kiểu quần áo đẹp, và trở về, tôi sẽ may giống vậy.
Trần Ninh Hồ: Con bé chê gì thì chê, nhưng gia chánh thì lại rất chuẩn.

Dương Thu Hương: Tôi không ghét gì Xuân Quỳnh. Tôi thích thơ nó nữa. Tôi chỉ không thích nó cái tính này-- sự khiếp nhược. Làm gì mà nó phải quỵ luỵ thằng Vũ thế? Tự nó không sống được à? Đàn bà phải tự trọng thì đàn ông nó mới quý mình được.
Tôi cũng không chơi với cái Th. Tôi tả nó trong BKBAV do tưởng tượng. Ví dụ, tôi tin gần như chắc chắn rằng cứ về nhà là nó tụt ngay quần ra.
Tôi thường nhận được nhiều thứ của các cụ già đã về hưu, thứ nào cũng dặn là con phải giữ gìn.
Lại còn cái đám trí thức khoa học của mình (người của những năm 60- Ân xác định), thư nhiều lắm. Ngày 9-2-90, Hương sẽ nói chuyện với CLB trí thức ở Hà Nội.
Có lần trước đại hội nhà văn, báo Lao động đã phỏng vấn Hương, và Hương đã nói là trong những năm gần đây người viết văn nổi nhất là Nguyễn Huy Thiệp.
- Thiệp nó có đến tìm tôi. Trong thâm tâm vẫn chịu là nó viết được hơn mình. Thiệp được chuẩn bị hơn chị, nó nói lại. Mày xông ra như một con mãnh hổ vậy, tôi công nhận.
Nó nói với tôi là bên Bộ Ngoại giao có cho nó biết, bên Pháp mời 2 nhà văn Dương Thu Hương và Nguyễn Huy Thiệp sang. Nó có cho tao đi thì tao đi. Còn nếu bắt tao làm con tin, nói những chuyện gì của bọn nó thì tao không chịu. Thiệp bảo chị phải bình tĩnh mới được. Theo như Thiệp biết, thì bên Bộ Ngoại giao họ rất thiện ý.

Một lần chia sẻ
 Năm 20 tuổi, tôi tự nguyện vào Trường Sơn. Cùng với đoàn văn nghệ đi các địa phương Quảng Bình (nơi mà tiếng khóc như ri cất lên sau những trận bom.)
Đi với niềm tin trong sáng để rồi vỡ mộng. Nhớ một kỷ niệm. Bí thư Tỉnh uỷ gặp trưởng đoàn văn công, phẩy tay bảo mang cho nó ít bột trứng, táo tầu. Giống như một cú sốc đầu tiên.
 Nghe Tư Thoan nói, cảm thấy gã như một cường hào. Hai chữ đồng chí vang lên như một sự lừa bịp. Tôi còn ngu dại, chưa biết gì thêm.
Cuộc sống như thời đồ đá. Nguồn cung cấp thức ăn là kho gạo bên kia sông nơi thỉnh thoảng cũng cho chúng tôi những hộp thịt. Kho hết phải đi lên xanh, rồi vòng xuống đồng bằng lấy gạo. Nhớ một vụ kỷ luật mấy cô y tá. Tỉnh đội trưởng tỉnh đội Quảng Bình đẹp trai, quyến rũ. Bê bối về nam nữ tràn lan. Những cô gái đó sau bị thuyên chuyển công tác để cấp trên trốn tội.
Tôi sinh ra với tâm lý phong kiến rất nặng. Nghĩ bọn có quyền đó, dùng quyền lực để chiếm đoạt phụ nữ. Hỏi tại sao không phản ứng. Mọi người bảo không thể. Tôi nghĩ chúng ta hèn nhát chúng ta đẫm đầu óc nô lệ.
... Thời kỳ đó qua đi. Sau 1975, tôi vào miền Nam. Tôi không mê lụa là son phấn. Chỉ để tâm một điều -- ở đó có hệ thống thông tin hoàn chỉnh. Người dân người ta biết nhiều. Các vỉa hè đầy sách... Soljenitxưn, Pasternak đủ cả.
Tôi choáng váng. Văn hoá ta bị khuôn dính. Tại sao chỉ biết Nga? Dân nghe đài nước ngoài thời ấy bị quy là phản động. Mà cũng mấy ai có đài Mẫu đơn, Xiangmao để nghe? Ở miền Nam, người ta biết nhiều hơn hẳn.. Làm sao mà dân trí ta nâng lên được? Ngay cánh gọi là trí thức trình độ cũng thấp thảm hại. Dễ đi theo giáo điều. Được chỉ đạo bằng tư tưởng duy nhất. Tôi nhớ sách lược bọn thống trị Trung quốc chôn nhà nho, đốt sách.
Phản ánh khát vọng kẻ cầm quyền muốn đặt nhân dân trong vòng ngu dốt. Trở thành bày cừu. Ngu dân là thế. Người đúng là người không bao giờ cam tâm kiếp con cừu.
Tại sao ta chiến đấu, để làm gì. Ta phải đánh giá lại cuộc sống của chính mình. Tôi nghĩ vậy. Tôi không hối tiếc những việc đã làm. Nhưng đặt ra câu hỏi sống để làm gì.
Bạn bè tôi chết nhiều khủng khiếp ở chiến trường B5.
Xã hội phải có lý tưởng. Lý tưởng đó phải chân thực. Đó không thể là một xã hội phong kiến được đánh bóng mạ kền bằng những danh từ xa lạ.
Tôi không biết làm gì, đành viết văn. Động cơ viết là muốn chỉ ra những ngộ nhận của con người trong đời sống.
Chiến tranh xong nhiều kẻ giàu lên. Nhiều người lính khổ sở. Trở về với một khung xe đạp, một con búp bê. Người lính đó là tôi. Còn những kể khác, thu hoạch không giới hạn.
Chúng ta chấp nhận hy sinh. Nhưng thực tế, có sự khập khiễng giữa lý tưởng và bộ máy thực thi. Hình như đồng hồ quay ngang.
      
Lúc đầu tôi thích viết truyện tình cốt hấp dẫn, thanh niên đọc.Thầm mong trong truyện tình có thể phát hiện ra chất xã hội. Tôi không buộc bản thân phải nhớ mình là đàn bà. Tôi không coi mình khác đàn ông trong văn học.
Với con người ở các nước khác, bi kịch nổi lên là trong tình yêu. Nhưng ở ta khác, ở xã hội ta, có những gia đình tự tử vì thiếu ăn.
Quan niệm về tình yêu chi phối phương thức biểu hiện tình yêu trong văn học.
Trong viết văn, tôi ẩu tả. Không nghĩ về nghề nhiều. Chỉ viết văn như một nhiệm vụ công dân. Tôi có tư tưởng phong kiến. Tôi hiểu điều đó. Tôi lùi lại. Nay là thời đại đổ vỡ niềm tin. Ở nhiều người là đổ vỡ mà không sao kiềm chế. Lớp trẻ hiện sinh một cách vô ý thức. Họ cho không còn tình yêu nữa. Chỉ có va chạm. Tình yêu như ly nước, cần thì uống. Vì quá khứ đè nặng, tôi dị ứng với những cái đó. Ngay những người đàn ông, đàn bà truỵ lạc nhất cũng không bớt đau khổ.
Người ta phải tìm những cái gì hợp với cá nhân.
Về cuốn Bên kia bờ ảo vọng. Tiểu thuyết đầu tay nhiều nhược điểm. Hăng say. Tự nhủ không nên bán mình vì khi bán mình thì chính anh cũng sụp đổ.
         Còn cuốn Những thiên đường mù  Khi cải cách ruộng đất tôi 9 tuổi. Đang ở Bắc Ninh. Một lần qua đường tàu, thấy một đảng viên tự sát, bộ quần áo nâu trên người còn mới. Một phú nông .
Một lần khác, lại nghe chuyện có một người bị quy là địa chủ tự tử. Người ta kể lai lịch trong kháng chiến ông ta là đảng viên. Ta cài làm lý trưởng. Nay bị quy oan.
Tôi không sinh ra ở nông thôn, nhưng thường đi công tác ở nông thôn. Tôi hình dung ra biến cố đó. Một nhà văn phải nghĩ đến nỗi đau. Không có quyền chỉ nghĩ đến những gì tốt đẹp.
 Lương tâm nhà văn chỉ thanh thản khi anh không bỏ qua những nỗi đau từng sống và chứng kiến.
Tôi biết so với thực tế, mình viết chưa thấm thía gì. Tôi nghe có chuyện cả ngàn người chà lên một xác chết. Có những hoàn cảnh người ta buộc phải làm việc đó. Không ai dám từ chối.
         Không thể tiến lên một xã hội mới, khi dày đạp như thế. Tôi không có kinh nghiệm trực tiếp. Nhưng lòng tôi lúc nào cũng bị ám ảnh. Một nhà văn lớp trước, anh Mai Văn Tạo góp ý kiến cho tôi. Ông Tạo bảo Cải cách ruộng đất là cả một sự ngạo mạn... Khinh sinh mạng con người... Tôi không quên được. Không cần bôi đen. Bôi đen là không lương thiện.
Chưa bằng lòng với Những thiên đường mù. Chỉ được 1%. Nhưng thế cũng được rồi. Thành công sẽ đến khi nhà văn viết như một sự nghiệm sinh, viết về những gì mình từng phải trả giá.
 Xã hội ta luôn luôn tự ngắm mình, ve vuốt mình. Cho nên mới có sự tha hoá như hôm nay. Nhân loại chỉ một lần như thế, thời cộng sản nguyên thuỷ. Xã hội ấy xa rồi. Đến xã hội nô lệ, đã có những thằng hề. Phong kiến còn có gián quan có ngự sử. Họ là hồi quang soi dọi cho nhà cầm quyền. Chúng ta nổ pháo hoàn thành cách mạng. Nhưng đây là thời kỳ khác. Việc bắt chước thời nguyên thuỷ là một sự chế giễu lịch sử.
Tôi không ngắm mình. Nghề văn luôn luôn bất trắc. Có thể mai đây, tôi phải bỏ bút. Luôn luôn người ta phải lựa chọn một cách lương thiện nhất.
Mỗi con người có thể và cần tìm cho mình một lối sống. Mỗi nhà văn đến với văn học theo con đường của mình. Tôi đặt chức trách công dân lên trên vai trò nhà văn. Cá nhân tôi, tôi nghĩ: những bi kịch của dân tộc lớn hơn mọi chuyện gia đình... Hãy tha thứ cho sự nóng vội của tôi. Bây giờ tôi cần nói ngay. Chờ đến khi tôi hiểu được hết...  có khi người ta không cần tôi nữa.
Nhiệm vụ tối thượng nhà văn - giải ảo tưởng. Cái đó cao hơn hết.
Biết ơn dân là chuyện cũ mà không cũ. Quên dân quá lâu. Việc đó gây ra tai vạ cho cả hai. Tôi nói điều đó, với ý nghĩ: phải hiểu đám đông. Sau cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cần cuộc đấu tranh nâng cao dân trí. XHCN kiểu ta trước đây, là kiểu trại lính. Trêu ghẹo nó, chịu tai vạ.
 Nhưng khi luồng thông tin hồi đáp bị chặt đứt - xã hội không thể lành mạnh.
Tôi thua kém mọi người ở đây về rất nhiều điều. Mọi người cho tôi là liều lĩnh. Tôi không liều lĩnh. Ta đi theo cách mạng, vì một xã hội tự do. Tôi biết tôi là hậu sinh. Tôi thấy các bậc đàn anh sống trong một thời đầy đau khổ.  Kiểu xã hội trại lính chỉ đẻ ra những gia nô. Tôi biết nhiều người những nghệ sĩ, đã trở thành gia nô.
Lịch sử đang được nói tới rất hàm hồ. Nhiệm vụ trí thức tìm lại chân lý bị đánh rơi. Tôi rất thương những người bị thất sủng về vườn đốt than. Nhưng không còn con đường nào khác. Người trí thức phải chiến đấu cho công bằng xã hội. Các trí thức đi theo CNXH không còn rung động với cuộc sống đau khổ của nhân dân. Trong những năm qua, nhiều trí thức bó giáo lai hàng, bởi chế độ  không chỉ nắm dạ dày, mà còn nắm vận mệnh. Tôi hiểu tình trạng trí thức tan nát mong manh. Cơ chế thiếu dân chủ đẩy họ vào bóng tối.
Người ta không thể hy sinh thế hệ này thế hệ khác vì một lý tưởng ảo. Tôi thấy đau lòng khi thấy các anh có tài phải sống trong đau khổ. Chế độ chuyên chế bao giờ cũng tiêu diệt trí thức. Trước bóp mồm bóp mũi người ta không cho người ta nói. Nay khủng bố họ bằng con đường êm dịu hơn. Cắt đứt tất cả quan hệ,  làm cho họ ung thối đi không còn khát vọng.
Một xã hội không thể tiến lên, nếu không có trí thức. Xã hội tiêu diệt trí thức là man rợ, là có tội với lịch sử. Nhân dân đau khổ cũng là nhân dân thần thánh. Nhưng trong mòn mỏi có lúc họ bao che cho tội ác. Chúng ta cần đấu tranh cho thể chế cụ thể. Quốc hội thông qua luật báo chí. Tôi nghĩ rất lạ. Trong đó có cái ý không được in những bài ở nước ngoài. Chân lý được quy nạp trên những quyết định trái chiều. Nếu  không  ai được nói khác đi, xã hội sẽ chìm vào bóng tối chuyên chế.
Tại sao tự do quan trọng?
Mấy thời kỳ vừa qua, đẻ ra một lớp quý tộc mới. Đó không phải những người có tài. Mà là những rập khuôn, là những công chức ngoan ngoãn. Quyền lực đem theo những món lời khác. Xã hội chỉ có bọn lập trường giả tạo, bọn cơ hội.
Không có điều luật nào quyết định được sự suy nghĩ. Trí nhớ không thể  bị chi phối bởi quyền lực. Không có lưỡi dao nào chặt được trí nhớ người ta, chỉ để phần có lợi còn lại. Tự hoàn thiện của nhà nước là điều kiện sống còn của xã hội.
Đại hội nhà văn: Có người tâm huyết, có người cơ hội, có người lừng chừng.

 Cuộc phỏng vấn bốn chục phút
Bắt đầu kể: 
- Lúc đầu tôi chỉ mơ làm cầu thủ bóng bàn, làm vận động viên... Ở trong đội tuyển của tỉnh Bắc Ninh ( lúc ấy chưa sát nhập tỉnh). Lớn lên thích âm nhạc, kéo đàn ắc coóc. Học ắc coóc 1965-1968. Học ở địa điểm sơ tán Yên Dũng gần trường nhạc. Chu + Bằng [ chồng Hương ] đều là bộ đội pháo ở Thắng.
13 tuổi có thơ đăng báo. Vào Quảng Bình, chơi với Mây, Dạ (tôi ở Ty Văn hoá, bọn kia ở Hội).
Sau giải phóng về Huế, làm công tác văn hoá cho sinh viên. Từ 1977 - càng mở rộng quan hệ với giới nghệ thuật
Bà không nghĩ văn chương như một nghề?
- Đúng.
Tức cho rằng không thể sống bằng viết văn.
- Không. Không bao giờ.
Nhưng vẫn xem mình như một nhà văn. Điều đó bắt đầu từ năm nào?
- Ngay bây giờ tôi vẫn không tin là tôi đi mãi với nghề. Ngày mai có thể chán viết. Ngày mai có thể bỏ đi đâu đó. Trước tôi toàn viết truyện ngắn và trước nữa làm thơ. Bây giờ đây nghĩ viết mãi những thứ đó là vô nghĩa.
Tôi trọng văn chương mà cũng khinh văn chương. Ảnh hưởng Nguyễn Huy Thiệp. Thái độ coi văn chuơng là ghê gớm --với tôi -- là xa lạ. Một thánh đường ư, tôi có thể vứt bỏ thánh đường đó.
Bà không coi cái gì là thiêng liêng?
- Sự thiêng liêng là những giá trị mà mình xác lập. Lúc này đây là tự do, là công bằng xã hội. Lý tưởng này khiến tôi bắt tay với những người khác. Kể cả người tôi không thích. Ai yêu tôi, nhưng khác lý tưởng, tôi không chơi.
Mục tiêu của người viết văn?
- Với trí thức, là đấu tranh cho công bằng xã hội. Dám bỏ cả viết văn, nếu cần. Mục tiêu viết văn của tôi không phải là văn chương.
Tôi được biết là nghề này dính lắm, ai vào không ra được.
- Nó còn có danh vọng, có tiếng tăm. Xã hội cổ lỗ, người ta không dễ làm người với nghĩa có quan niệm riêng. Tôi thì khác. Trong sự thách đố xã hội, tìm thấy niềm vui. Tôi chấp nhận cô đơn, kể cả tự tử. Nhưng không thể đánh mất mình. Phải làm mọi việc vì niềm vui.
Bà nhìn giới viết văn ra sao?
- Thương hại. Xin lỗi nhưng tôi không bỏ được từ này. Người ta chạy vạy lặt vặt.. Tôi thấy ái ngại cho họ. Có những người tôi kính trọng như nhà thơ Hữu Loan. Ông sẵn sàng từ bỏ nghề văn nếu không được dùng ngòi bút làm việc của mình. Tôi thương và kính trọng. Ông ấy nghèo khó bần cùng đi. Lựa chọn con đưòng coi như cuộc đời đã hết, còn hơn làm điếm.
Vai trò kiến thức văn hoá với nhà văn?
- Quan trọng. Phải có cái vốn nào đó.
Có cố viết?
- Cũng có với nghĩa được gì hay đấy. Tôi đi chơi, rồi về viết. Mọi sự dùi mài cũng thảm hại, nhưng thà thế còn hơn lười biếng buông trôi.
Ai là người có ảnh hưởng?
- Gần đây, là Nguyễn Huy Thiệp. Đối với ông Châu tốt, quý nhưng không nói chuyện được. Chưa có Nguyễn Huy Thiệp, chả có ai. Chơi nhiều. Bỏ nhiều.
Thiệp ảnh hưởng gì?
- Tôi chú trọng công dân. Tôi thiếu cái phần nhân bản. Chưa đủ thì đúng hơn. Ở Thiệp, nghề văn là nghiêm túc, đương thời là đáng khinh. Nếu nó không biết khinh bỉ tôi không chơi với nó.
Làm sao giữ được cân bằng?
- Cheo leo thế, kệ nó.
Nghiêm túc với Thiệp nghĩa là gì?
- Chú ý đến nghệ thuật. Có ý thức về nội lực. Tôi làm khơi khơi. Đáng lẽ phải tu luyện nhiều về nghề nghiệp.
Bà có tin mình làm được như Thiệp.
- Được.
Bà làm việc như thế nào?
- Đọc sách hàng ngày
Có đọc đi đọc lại quyển nào?
- Quyền lực của B. Roussel, Thần đêm u ám của Koestler. Rồi đọc linh tinh  sách Sài Gòn trước 1975. Nhà văn Nga thích nhất là Tchékhov( phần kịch ) rồi Đốt. Vấn đề mà ông ấy quan tâm. Đọc Paustovski thấy nhạt nhẽo.
Bà tự nhận kiến thức chắp vá?
-      Đúng. Tôi không cần hoàn chỉnh.
Văn học Pháp.
-      Đọc hết...
 Văn học cổ ?
- Hồ Xuân Hương. Thích máu nổi loạn. Cả Kiều cũng không thích bằng.
Tự lực văn đoàn?
-- Ghét. Văn chương trước 30-45 chỉ có Vũ Trọng Phụng.
 Nghĩ gì khi thấy một bạn trẻ viết văn ?
- Thấy buồn cười như thấy người ta cưới nhau, rồi nghĩ lại có lúc kính thưa quý toà, bỏ nhau.
Trong đó có chút gì ngớ ngẩn?
- Đúng. Nhưng đó là kiếp người, kể cả tôi.
Thuở bé?
- Tôi là người phụ nữ trưởng thành muộn. Khi các bạn đã yêu nhau tôi  trong cặp vẫn có cặp na - củ đậu để đi chơi.
Người đàn bà viết văn vất vả. Vất vả hơn đàn ông?
- Trong xã hội bạo lực, người đàn ông khó khăn hơn.
Ấn tượng về những phụ nữ viết văn?
- Tôi ít nghĩ tới. Vì mải nghĩ chuyện khác.  Với họ, không chơi. Tôi coi họ như không có.
Có bị họ ghét?
- Tôi không để ý
Bà không sợ dư luận?
- Đến bạo lực tôi cũng không sợ. Tôi chỉ sợ mình chán mình, mình không kính trọng mình nữa. Ngoài ra, cần gì.
Có tình bạn trong văn chương?
- Không có. Chơi với ông Châu, với ông Khải là chuyện cơm nước, trò chuyện, châm chọc.
Viết xong, có hay mang cho ai đọc
- Không!
Đọc thư bạn đọc, cảm tưởng ra sao?
- Cảm thấy lúc ấy, mình có ích cho người ta. Cộng với lòng tha thiết với lẽ công bằng mình đã được đền đáp.
Bà tin ở tác dụng với mọi người?
- Cái đó có. Tôi thiếu thành kính với văn chương. Nhưng tôi thành kính với con người. Tôi thấy có thể giúp cho đau khổ con người được thuyên giảm. Mặc dù tôi biết có khi là mình đau khổ trước tiên.
  Dạo này bà hay nói “nhà văn của nhân dân”?
- Mới vài năm nay. Trước kia viết bản năng. Không muốn vào nhóm nào. Kiến thức là nghe người ta nói, cả nghe cải cách ruộng đất... Nhưng không muốn ràng buộc với bất cứ ai.
Bà không định thành con người hoàn chỉnh.
- Kể cả  khuynh hưóng văn chương. Có nhiều người muốn dạy tôi. Rất tốt bụng. Nhưng tôi từ chối.
Một người học trò ngỗ ngược?
- Đúng, tôi thấy mình thế. Mặc dù anh Phạm Mạnh Hùng mắng tôi xa xả nhưng anh ấy quý tôi. Ai quý, tôi tha thứ. Các ông Nhân văn Giai phẩm mời tôi đến tôi không đến.
 Đấy, tôi là thế. Tôi bảo thủ. Tôi không uyển chuyển. Tôi ít thay đổi, chấp nê, dễ chết. Người đàn ông tử tế đã khổ; đàn bà khổ cách khác.
Bà ít đọc sách tôn giáo và không muốn nhẫn nhục?
- Tôi không chấp nhận sự nhẫn nhục. Một là tôi chết. Hai là tôi sống, tôi chống lại cái ác.
Có cho là mình gặp may?
- Nếu sống thời trước, chết rồi. Vậy gặp may. May mắn nhất là có một quan niệm văn chương thoải mái.
Có lúc nào cảm thấy mình bất hạnh?
- Không và có. Có lúc nghĩ không ai khổ bằng mình Rồi lại nghĩ người khác bất hạnh hơn.
Tại sao viết văn ?
Thấy nhờ đó đấu tranh chống cái ác  tốt hơn.
Có bao giờ định bỏ?
- Sau Bên kia bờ ảo vọng, tôi muốn tự tử. Tôi chả hiểu vì tại sao? Cộng với những đau khổ cá nhân, lúc ấy tôi cảm thấy mọi chuuyện vô nghĩa.
Thấy trong cuộc sống, bất hạnh và hạnh phúc có từ lâu, mà vẫn như không có.
Nói chung tôi chả yêu ai bao giờ.  Nhưng thấy truyện tình người ta viết nhiều thì viết. Không có ý thức gì. Như là Chuyện tình kể trước lúc rạng đông. Không có chuyện của mình. Chỉ nghe kể rồi viết lại.
Bà nghĩ sao về phê bình?
- Họ thông minh hơn cánh viết văn. Nhưng họ bị nô lệ.

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn