Trích từ chuyên mục
Người
xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể
thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn
Nhìều
chuyện đáng xấu hổ
Trong một họ, tôn trưởng thời lèm nhèm, con em thời vô lại;
trai ăn trộm đánh bạc gái làm biếng chửa
hoang;
nhà thờ tổ có kẻ giỡ ngói bán, ngày giỗ tổ
uống rượu để rức nhau (1);
nhà
bác cưới con gái nhà chú không được tiền thời sinh sự để trở hôn, người này
chết vợ con người kia có sự bất bình
thời sinh sự để ngăn cản việc tống táng…
Ấy là những sự xấu hổ của một dòng họ.
Trong một làng, đàn anh chỉ ăn
bẫm, đàn em chỉ kiện nhau;
đình điếm tồi tàn, đường bến rác uế,
tiếng chửi mất mạ ở ngoài đồng, tiếng chửi mất gà ở trong xóm;
nhà nào có tang ma thời quan viên hạch
sách sự ăn uống, nhà nào có thất hoả (2) thời hàng xóm láng giềng đến hôi đồ …
Ấy là những sự xấu hổ của một
làng.
Trong giới thực nghiệp (3), người có tư bản mà
không có chí khí, lấy giàu đủ hơn người khác làm mãn nguyện mà không mở rộng
được công việc;
hiệu mở rồi lại đóng, hội họp rồi lại
tan;
việc canh nông không khảo xét mà chỉ mong
nhờ trời làm được mùa, việc công nghệ không cầu tinh mà chỉ lấy bán đắt làm lãi
…
Ấy là những sự xấu hổ của giới thực
nghiệp.
Sự đáng xấu hổ thì nhiều mà
người biết xấu hổ thời ít.
(1) nhiếc móc nhau
(2) bị cháy
(3) chỉ chung các nghề làm ăn kiếm sống
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu
Sự xấu hổ, Hữu thanh,
1921
Vục đầu ăn uống
trách sao dân chẳng hèn nước chẳng nhược?
trách sao dân chẳng hèn nước chẳng nhược?
Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người
được phẩm hàm…đều phải khao vọng. Nhà
vua cũng đã đặt lệ giản tiện cho người ta dễ theo. Đại để như đỗ tú tài thì
khao một con gà một đĩa xôi và ba quan tiền, đỗ cử nhân thì khao một con lợn
một mâm xôi và năm quan tiền.
Nhưng ngặt vì tục dân đã quen, chiếu lệ ra
mà làm thì họ cũng phải chịu, nhưng tình ý không thoả hiệp thì họ sinh ra lắm
sự ngăn trở.
Họ
có câu rằng “Phép vua thua lệ làng “, thực là một lời nói đáng khinh bỉ.
Lại có một câu nữa là câu “vô vọng bất
thành quan “(1). Cứ như câu ấy thì ra có xôi thịt cho họ ăn thì họ tôn kính, kém xôi thịt thì họ coi thường. Vậy thì họ chỉ vì miếng ăn mà đổi lòng khinh
trọng, sao đê tiện hèn hạ làm vậy?
Lại ngán nỗi cho hạng kỳ mục(2), động ai
có việc gì mời mọc đến ăn uống no say rồi thì giở ra cách chơi bời, thuốc phiện
hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thoả thuê, ấy thế là hể hả.
Giá đám nào kém thì đã thấy lắm kẻ hậm hà hậm hực, tiếng nọ tiếng kia, làm cho
người ta khó chịu.
Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết
trời đất là đâu, ngoài sự ăn uống không còn có sự nghiệp gì, như thế thì trách
làm sao mà dân chẳng hèn, nước chẳng nhược?
(1)không khao vọng không phải là quan
(2) kỳ ở
đây là già cả. Các từ điển cũ ghi kỳ mục là những người già cả “tai mắt” trong
làng
Phan Kế Bính
Việt Nam phong tục 1915
Chưa làm quan đã nghĩ tới
trộm cướp của công để hưởng lạc
trộm cướp của công để hưởng lạc
Có những người nộp một quan tiền thuế mà tựa
hồ bị cắt mất một miếng thịt, rên siết than vãn, thế mà đến sòng bạc thì cầm
nhà bán cửa không tiếc.
Có những hạng giàu có phong lưu, ăn mày
chầu chực trước nhà không xin nổi một đồng điếu, người làng thiếu thuế không
vay lợi được một quan, thế mà đến chỗ ăn chơi thì ngàn vàng mua một trận cười,
trong cơn sát phạt, trăm vạn chỉ đặt một tiếng. Hạng người này nhiều lắm, không
xe nào chở hết...
Cũng có nhiều người mới học kha khá đã truy
hoan, ngày nào cũng mài miệt trong cuộc đỏ đen, thường lui tới các chủ nợ hứa
với người ta rằng “Đợi tôi dạ một tiếng trước cổng trường (1) thì mọi việc sẽ
đâu vào đấy”.
Rắp tâm hành động như thế, rõ ràng là quân
trộm cướp của công chứ còn gì?
(1) Tức là thi đỗ, rồi ra làm quan, tha hồ kiếm
chác
Nguyễn Trường Tộ
Tám việc cần làm gấp, 1867
Tham giàu cho mau nên sinh cờ gian bạc
lận
Cũng bởi người mình tục quấy (1) nhiều,
cho nên mới sinh bài bạc nhiều. Bài bạc ham nghĩa chi? Nghĩa là tham cho mau có
tiền, đặng khoe khoang nhà cao cửa lớn, đặng cho khỏi bị người giàu có khinh
khi bỉ bác. Tại bởi quấy, ít thương nhau cho nên sinh ra tranh đua về lý tài
(2). Lý tài gấp thì có món chi mau hơn cờ gian bạc lận? Rõ là tục quấy làm cho
người trở lòng tham lam.
(1) Tục
quấy có nghĩa thói quen xấu. Theo Đại
nam quốc âm tự vị, quấy có nghĩa rất rộng chỉ sai lầm giả dối không nên
không phải
(2) cốt
sao kiếm lợi
Lương Dũ Thúc,
Nông cổ mín đàm, 1902
Những mộng
tưởng hão
Nghề cờ bạc hại như thế, mà sao lại lắm
người đam mê? Đó chẳng qua mấy bác ăn không ngồi rồi, không nghĩ cách xa xôi,
trước còn cho là một cuộc tiêu khiển,
rồi cay vào thành ra gỡ gạc. Các tay đại phú, các bậc hào thương, thường cũng
có kẻ đam mê mà bỏ cả công việc buôn bán. Hạng ấy thì lại mộng tưởng những sự
may rủi lớn lao, tưởng những sự gỡ một ngày còn hơn buôn cả tháng.
Người ta không biết trọng cái thực lực mà
muốn trông cậy về vận may thì chí khí cũng đã kém rồi, huống chi là cái may
cũng không mấy khi được gặp.
Phan
Kế Bính
Việt Nam phong tục,1915
Ăn uống chơi bời bên cạnh
nỗi đau của người khác
Cái tục tang ma ở ta, hiếu chủ (1) đã có
nhiều cách phiền phí (2), đến như lệ làng lại càng phiền nhiễu nữa.
Việc tử
biệt là cái cảnh rất thương xót, mà sự trợ
tang thì là một nghĩa vụ của xã hội.
Đã gọi là nghĩa vụ thì khi người ta đau
đớn có thể giúp được gì thì giúp chứ ai còn tưởng gì đến sự ăn uống. Mà hiếu
chủ đang lúc buồn bã âu sầu, còn bụng nào mà nghĩ đến việc thù tiếp. Vậy mà ép
cho người ta phải cỗ bàn khoản đãi thì cái nghĩa vụ cứu giúp nhau ở đâu?
Trừ
người cùng kiết (3) quá, còn như người có thể lo được hoặc có thể vay mượn
được, không mấy ai chịu kém cái sĩ diện.
Vậy tiếng là tuỳ tiện (4), mà cũng là buộc
một cái nợ miệng cho người.
Đến như các làng, dẫu ai đau đớn khổ sở
thế nào mặc lòng, hễ có ăn thì còn để cho người ta giữ hiếu nghĩa, không có ăn
thì hiếu nghĩa của người ta cũng bỏ.
Tục ấy là một tục rất thô bỉ, rất hủ
bại, rất bạc bẽo, không có tục nào xấu xa đê tiện bằng!
(1) người đứng ra chịu tang
(2) bận
rộn tốn kém
(3) nghèo túng
(4) dễ
dãi sao cũng được
Phan Kế Bính
Việt Nam phong tục, 1915
Lười nhác không
chịu vận động,
không biết thế nào là thể
thao thể dục
Người nước ta quý trọng các ông thầy đồ lưng dài tốn áo ăn no lại nằm đã thành
ra một cái bệnh gần chết không có thuốc chữa. Đến lúc sóng Âu châu ập vào,
người ta coi chừng đã tỉnh dậy, nhưng mà công phu về đường thể dục còn chưa
nghiên cứu đến nơi.
Cái
căn tính lười nhác đã quen nết lâu ngày, lại nhiều điều thói đãng tính dàm dê
(1) cho hại đến sinh mệnh, người ta lấy thế làm sự thường, không lo đường cải
cách nào là công khoá (2) về đường thể
thao, nào là lợi ích về cách vận động.
Trong một ngày có 12 giờ, nửa ngồi chết
trước cuộc tài bàn (3), nửa nằm chết bên đèn thuốc phiện.
Vận động đã không có công phu thì huyết
mạch lấy gì làm lưu thông; huyết mạch đình trệ thì thân thể phải hèn ốm cho rồi,
dân mới hoá ra dân nô lệ, nước mới hoá ra nước bạc nhược.
(1)
Thói đãng là cách
sống buông thả; riêng dàm dê là gì, chúng tôi chưa tra cứu được, không rõ có phải
là dâm dê hay không (?).
(2)
Những công việc
khi vào học phải làm là công, những thứ học trò phải học là khoá, gọi chung là công
khoá
(3)
Một loại tổ tôm, nhưng
chỉ có ba người, và đánh không có chừng mực nào cả (Theo cách giải thích của
Phan Kế Bính trong Việt Nam
phong tục)
Phan Bội
Châu
Bài diễn thuyết tại Trường quốc học Huế,1926
Sự xa xỉ mang hại lớn
Đua nhau may những hàng đẹp mặc những
hàng mới, chửa được bao lâu lại đổi mặc hàng khác, ấy là cái thói đua mới
chuộng lạ của người dân ta. Có sự xa xỉ bởi có sức trợ chưởng(1) từ bên ngoài.
Những người thượng lưu không vụ lấy tài
đức hơn người, chỉ cốt chăm chăm về đường hư sức (2), bề ngoài dễ khiến người
đời xu thượng (3).
Lòng người đã khuynh hướng về sự xa xỉ,
thời tất không thích dùng những hoá vật trong nước mà lại coi nhưng đồ ngoại
quốc là lạ là quý hơn, ấy lại là một sự thiệt hại cho nước mình nữa.
(1) bàn tay giúp sức
(2) vẽ vời giả tạo
(3) mải chạy theo
Trịnh Đình Rư
Phép thực dụng kinh tế
trong một nhà Hữu thanh, 1921
Mê tín thủ cựu
dốt nát
Đâu đâu cũng thấy những người nông dân mê tín
thủ cựu và dốt nát. Thường xuyên có sự lãng phí sức lực. Một
thói quen lâu ngày đã làm họ thích nghi với cuộc sống khốn khổ.
Khi
có một ít tiền, họ liền tiêu bừa bãi trong những hội hè. Nếu mùa màng thu hoạch
tốt, ngày tết đến họ đốt pháo tha hồ, họ tổ chức những hội hè kéo dài đến mười
lăm hoặc hai mươi ngày. Sự thiếu lo xa hầu như không có giới hạn.
Ruộng đất khai thác chỉ cho một năng suất thấp, khiến sự nghèo đói của
người làm ruộng lại càng trầm trọng thêm.
Vì
thế người nông dân thường xoay sở bằng mọi cách. Cách xoay sở tốn ít công sức
nhất là cờ bạc.
Trong xã hội Việt Nam ,
mọi người đàn ông, đàn bà, trẻ con đều đánh bạc.
Tôi đã đếm được ở một hội làng tới 22 lối cờ bạc, và 150 chiếu chơi xóc
đĩa. Các tội ác, các vụ trộm cướp, những hành động phạm pháp thường chỉ là do
cờ bạc mà ra.
Người ta đánh bạc với hy vọng làm cho hoàn cảnh của mình khấm khá hơn.
Đôi khi điều đó dẫn đến những hậu quả
khôn lường.
Nguyễn Văn Huyên
Vấn đề nông dân Việt
Nam ở Bắc Kỳ, 1939
Từ lệ hương
ẩm tới óc xôi thịt
Trong
các tục lệ của xã hội Việt Nam ,
lệ hương ẩm(1) là một lệ phổ thông hơn cả. Người ta thường tranh nhau ngôi thứ
để đạt quyền lợi. Vì góc chiếu trên nơi đình trung mà nhiều người tranh giành
thưa kiện nhau đến mất nghiệp; vì một miếng xôi phần thừa huệ thánh sau khi tế lễ tại đình mà nhiều người thành ra thù địch nhau.
Cái khiếu xã hội (2) của nhiều người không
tìm được lối thoát khác để thoát ra, nên đã lạc hướng mà biến thành óc xôi
thịt.
(1) lệ ăn
uống ở các làng xã
(2) ý
thức về vị trí xã hội nơi mỗi cá nhân
Lương Đức
Thiệp
Xã hội Việt nam 1944
Càng nghèo càng
thích chạy theo những trò nhảm nhí
Thử nhìn vào đám dân quê dư dật xem họ có
việc gì, ta thấy ngoài công cuộc làm ăn, họ chỉ còn quân bài lá bạc thuốc phiện
hay cô đầu.
Đám dân nghèo cũng vậy, không phải là họ
không biết cờ bạc, ngược lại càng nghèo họ càng lăn vào cuộc đỏ đen, hòng kiếm
thêm ít tiền mà mồ hôi nước mắt không đủ mang lại cho họ.
Thành ra, từ trên xuống dưới, giàu cũng
như nghèo, không to thì nhỏ, cờ bạc đã trở nên một tập quán ăn sâu vào đầu óc
dân chúng, đó thực là một mối tai ương cho dân tộc ta vậy.
Ngoài
ra nếu không cờ bạc thì người ta lại đua nhau đồng bóng, lễ bái nhảm nhí, từ đó
sinh ra biết bao nhiêu mối tệ đoan khác.
Đỗ Đức Dục
Vấn đề tổ chức những thì giờ nhàn rỗi của
người
bình dân ở xứ ta, Thanh nghị, 1945