Trong thực tế giao thiệp,cũng như khi
tiếp xúc với các tác phẩm văn chương, người ta rất dễ quan liêu, tức là mặc sức
cho những ấn tượng ban đầu thao túng, từ đó, tạo nên những huyền thoại, kể cả huyền
thoại về những con người được xem là tốt, lẫn những con người bị gán cho đủ mọi
thói xấu.. Và việc lật lại các huyền thoại bao
giờ cũng chỉ hình thành do nhu cầu thời đại, như lúc nó - huyền thoại -- được hình thành cũng do nhu cầu thời đạị.
Sự trùng hợp kỳ
lạ
Trong chương mở đầu Số đỏ, Vũ Trọng Phụng có đoạn tả lại cái cảnh Xuân đi xem bói, và
khi ông thày bảo khai ngày sinh tháng đẻ, thì nhân vật này -- tạm dùng đại từ nó như
Vũ Trọng Phụng thường gọi -- đáp lại gọn lỏn “Hai mươi lăm tuổi đấy bố ạ.
Tháng mười, ngày rằm, giờ gà lên chuồng“.Trong cuộc hội thảo vào dịp kỷ niệm 90
năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng (10—2002), nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải có
một tham luận (1) phát hiện ra sự liên hệ thú vị: những con số nói trên liên
quan đến người đã tác thành ra nhân vật chính của Số đỏ. Tức ngày sinh tháng đẻ của Vũ Trọng Phụng cũng là ngày sinh
tháng đẻ của Xuân. Cho đến ngoại hình
của tác giả cũng có những nét của nhân vật.
Không cần là người thạo tử vi, chỉ theo lẽ
thường mà suy, người ta đã có thể nghĩ: giữa nhân vật chính của Số đỏ và tác giả như vậy là có một mối
duyên nợ kỳ lạ. Nhân vật không còn là
một thứ chúng sinh bình thường, một thứ công cụ để ông trình bày tấn trò đời.
Mà phải nói cái anh chàng mà ông thác sinh ra đó có một mối quan hệ riêng với
ông, nó là một phần con người cuả ông. Đây là loại nhân vật có lô - gích nội
tại, có quy luật phát triển riêng; sau khi đã đẻ ra nó, nhà văn không thể đứng
từ một khoảng cách rất xa để tuỳ tiện điều khiển, mà phải nhập thân vào nó, coi
nó như người có thật, tìm hiểu, lắng nghe, đối thoại với nó.
Đến lượt mình, người đọc cũng phải có cách
nghĩ khác về Xuân.
Lâu nay khi bàn về một con người, hoặc
nhân vật của một tác phẩm văn học, ở ta có một thói quen là cố tìm cách sắp xếp
xem nhân vật hay con người đó thuộc vào dạng tích cực hay tiêu cực, được tác
giả đưa biểu dương hay phê phán. Với Xuân, người ta có thêm cơ hội để gắng đi
tới một hệ thống phân loại cận nhân tình hơn. Việc tìm ra và xác định rõ cái
chất người ở Xuân đòi hỏi một cái nhìn cởi mở, vượt qua mọi thành kiến mà hàng
ngày ta không để ý.
Chưa hẳn đã là lưu
manh thứ thiệt
Cái danh hiệu “quý hoá” mà nhiều người
nghĩ tới và không ngần ngại gán cho Xuân tóc đỏ gói gọn lại trong hai tiếng lưu
manh.
Theo cách hiểu thông thường, nhân vật lưu manh thường là loại người sống bên lề xã hội; lưu manh đồng nghĩa với những gì xấu xa hư hỏng, lừa bịp, dối trá. Như vậy, Xuân bị gán cho những tội vạ nặng nề nhất dành cho những kẻ không còn là người.
Theo cách hiểu thông thường, nhân vật lưu manh thường là loại người sống bên lề xã hội; lưu manh đồng nghĩa với những gì xấu xa hư hỏng, lừa bịp, dối trá. Như vậy, Xuân bị gán cho những tội vạ nặng nề nhất dành cho những kẻ không còn là người.
Thậm chí có thể nói, trong tâm trí của nhiều
người, ngay đến Chí Phèo suốt ngày say khướt và mang mọi người ra chửi, sẵn
sàng gây vạ cho cả làng Vũ Đại, xem ra còn có gì đó dễ chấp nhận hơn là Xuân
tóc đỏ.
Thành kiến này, cố nhiên, có cái lý riêng
của nó. Chính tác giả đã sớm tóm tắt cho người đọc biết trước mặt họ là một con
người hoàn toàn vô giáo dục . Câu đầy đủ trong nguyên văn: “Cảnh ngộ
tạo nó nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm thạo đời lắm“.
Đúng là trong suốt cuốn truyện, Xuân có
làm nhiều việc gây phản cảm. Nhưng Xuân không hoàn toàn hư hỏng như người ta
thường nhầm và khái quát một cách vội vã. Trong cách ăn nói và trước tiên là
cách nghĩ của Xuân không có dấu hiệu của sự hèn mọn, đểu giả . Chính nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến là người đã phát hiện ra điều đó(2).
Thứ nữa, một thói xấu thuộc loại khó chấp nhận nhất của lưu manh là lười biếng, không chịu làm việc thì Xuân không mắc. Khi tham gia vào việc phục vụ các bà các cô ở tiệm Âu hoá, cũng như khi trở thành nhân vật của giới thể thao quốc gia, nó chỉ làm những việc mà nó thông thạo và có năng khiếu. Đây cũng là ý của Hoàng Ngọc Hiến(3).
Rồi khi ngẫu nhiên tham gia vào việc chữa bệnh cho ông già tám mươi tuổi thân sinh của cụ cố Hồng, nó đâu có tự đứng ra khoác lác, chẳng qua bị giới thiệu là sinh viên trường thuốc với ông đốc thì nhận tràn đi, mà không cải chính, thế thôi; cũng như cái việc chữa cho ông cụ bằng thuốc thánh xin ở đền Bia, thì đó là do thói quen mà làm, chứ không thể nói Xuân cố tình bịp bợm.
Chung quanh hai chữ lưu manh, cùng lúc tồn tại những cấp độ ý nghĩa khác nhau. Đúng là nói tới lưu manh, người ta nghĩ ngay tới những hành động cụ thể. Nhưng trong sự giao tiếp hàng ngày, lưu manh còn nên được xem xét trên phương diện những ý tưởng không thành hình nhưng ngầm chi phối hành động con người như tinh thần khinh rẻ đồng loại, bỏ qua những chuẩn mực thông thường, hư vô với nghĩa xấu của từ này. Đứng đằng sau các hành động lưu manh thường là một "triết lý" dễ dãi: Chúa đã chết, chẳng còn có gì là lương tâm thiêng liêng nữa, và cái gì con người ta cũng có quyền làm.
Không chỉ thấy ở dân vô học mà trong nhiều trường hợp, tinh thần bất chấp đạo lý toát ra cả trong hành động cũng như tư tưởng của những người được học hành có bằng cấp cẩn thận, và hai tiếng lưu manh hoàn toàn thích hợp để gọi họ.
Thứ nữa, một thói xấu thuộc loại khó chấp nhận nhất của lưu manh là lười biếng, không chịu làm việc thì Xuân không mắc. Khi tham gia vào việc phục vụ các bà các cô ở tiệm Âu hoá, cũng như khi trở thành nhân vật của giới thể thao quốc gia, nó chỉ làm những việc mà nó thông thạo và có năng khiếu. Đây cũng là ý của Hoàng Ngọc Hiến(3).
Rồi khi ngẫu nhiên tham gia vào việc chữa bệnh cho ông già tám mươi tuổi thân sinh của cụ cố Hồng, nó đâu có tự đứng ra khoác lác, chẳng qua bị giới thiệu là sinh viên trường thuốc với ông đốc thì nhận tràn đi, mà không cải chính, thế thôi; cũng như cái việc chữa cho ông cụ bằng thuốc thánh xin ở đền Bia, thì đó là do thói quen mà làm, chứ không thể nói Xuân cố tình bịp bợm.
Chung quanh hai chữ lưu manh, cùng lúc tồn tại những cấp độ ý nghĩa khác nhau. Đúng là nói tới lưu manh, người ta nghĩ ngay tới những hành động cụ thể. Nhưng trong sự giao tiếp hàng ngày, lưu manh còn nên được xem xét trên phương diện những ý tưởng không thành hình nhưng ngầm chi phối hành động con người như tinh thần khinh rẻ đồng loại, bỏ qua những chuẩn mực thông thường, hư vô với nghĩa xấu của từ này. Đứng đằng sau các hành động lưu manh thường là một "triết lý" dễ dãi: Chúa đã chết, chẳng còn có gì là lương tâm thiêng liêng nữa, và cái gì con người ta cũng có quyền làm.
Không chỉ thấy ở dân vô học mà trong nhiều trường hợp, tinh thần bất chấp đạo lý toát ra cả trong hành động cũng như tư tưởng của những người được học hành có bằng cấp cẩn thận, và hai tiếng lưu manh hoàn toàn thích hợp để gọi họ.
Trong Hoàng Lê nhất thống chí, một nhân vật
là huyện Trang. Trong cảnh hỗn loạn, công khai làm chuyện động trời là bắt vua
lấy thưởng, nhân vật này đã tự giải thích hành động của mình bằng câu “triết
lý” xanh rờn: “Sợ thầy không bằng sợ giặc, yêu chúa không bằng yêu thân“.
Sự bất cần đời ở đây đã lên đến mức trắng
trợn, và phải gọi đó là cái thần của mọi hành động lưu manh.
So sánh với các nhân vật loại “có học“
nói trên, thì Xuân của chúng ta chưa đến nỗi. Nó không ích kỷ và cá nhân chủ
nghĩa tới mức đi ngược đạo lý thông thường. Đứng trước cuộc đời, nó còn biết sợ.
Trong kho tàng truyện cười dân gian Việt
Nam, có hẳn một chùm truyện viết riêng về hai nhân vật nổi tiếng là Ba Giai Tú
Xuất. Vốn họ cũng là người có được học hành đàng hoàng, thi cử đâu ra đấy, song
sống trong một hoàn cảnh ngang trái, xã hội nhố nhăng hỗn loạn (thuở xã hội
phong kiến VN ở vào thời kỳ mạt vận), niềm tin của một trí thức ở Ba Giai cũng
như Tú Xuất tan nát hoàn toàn. Họ lao ra đường làm bậy. Gặp ai họ cũng tìm cách
trêu chọc thậm chí hạ nhục.
Nói như cách nói của những năm đầu thế kỷ XXI
này, phải gọi Ba Giai Tú Xuất làm nên một cặp bài trùng, chuyên nghề khủng bố
lẻ, cười cợt ngay trên nỗi đau khổ của người khác. Nhân vật ở đây thực đã rơi
xuống vũng bùn của thứ chủ nghĩa hư vô ở dạng thấp hèn, trong cơn tuyệt vọng tự
cho phép mình tha hồ phá phách.
Xuân tóc đỏ xa lạ với những cách cư xử
kiểu ấy. Nó không bao giờ làm những việc đáng để gọi là bất nhân bất nghĩa.
Ngược lại,ở nó chỉ có một ám ảnh là làm sao ra khỏi tình trạng khốn quẫn và tìm
cho mình “một chỗ đứng dưới ánh mặt trời “.
Nên biết thêm rằng bản chất lưu manh
không chỉ thể hiện ở tình trạng bần cùng hoá về đường vật chất, mà còn bao hàm thái
độ khinh miệt đối với trí tuệ và các giá trị tinh thần, kể cả kiến thức và sự
uyên bác. Sự khinh miệt này làm cho các nhân vật lưu manh trở nên đối lập
hoàn toàn, tức một thứ khắc tinh của những
người trí thức chân chính; sự thắng thế của tư tưởng lưu manh góp phần vào việc
huỷ diệt niềm tin nơi các trí thức ấy, làm cho họ không còn tin ở mình, ngấm
ngầm khuyến khích họ biến chất, tức cũng chung một triết lý sống với những kẻ
vô học càn rỡ, láo lếu.
Nhìn lại, thấy những “ưu điểm” loại này
cũng không có chỗ đứng trong tâm trí Xuân.
Một phát hiện rất tinh tế nữa của Hoàng Ngọc Hiến là cái chi tiết Xuân ta trong cơn cao hứng suồng sã vỗ vai đùa bỡn với
đốc tờ Ngôn hoặc Josef Thiết, coi họ cùng cánh với mình. Nhưng, chỉ có thế, nó dừng lại ngay ở đó, và trong bụng vẫn dành cho
họ sự kính trọng, khi cần thì thành thực nhờ họ giúp đỡ.
Một người lập
nghiệp
Các nhân vật được xếp vào loại tích cực (với
nghĩa đáng khen đáng noi theo) trong văn học cổ cũng như văn học hiện đại ở
Việt Nam thời kỳ 1932-45 thường là những người yếu đuối, bị chèn ép. Như trường
hợp chị Dậu trong Tắt đèn . Trong sự cảm thụ
thông thường, nhân vật này thường được xem như có nhiều phẩm chất tích cực,
đáng biểu dương ca ngợi.
Nhưng hãy thử đọc lại tác phẩm của Ngô Tất Tố. Nét nổi bật ở
chị Dậu là thương chồng thương con. Nghĩa là người đàn bà nông dân này có một
đời sống tình cảm thuần phác và đôn hậu. Song, khi chỉ vào đời với những phẩm
chất ấy, người ta rất dễ chuốc lấy bất hạnh.
Về nhiều phương diện, trong chị Dậu thấy lặp lại cái phần thiếu xót nằm sâu trong tính cách cô Kiều thân thiết của tất cả chúng ta. Họ đều là những người không có được sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh xã hội nói chung, về tình thế của mình nói riêng, do đó trên đường đời nhiều phen rơi vào bị động bất lực.
Trong Truyện Kiều, khi gia đình khó khăn thì Kiều chỉ biết có cách khóc lóc rồi sẵn sàng bán mình cứu cha, dấn thân vào cuộc sống phong trần; cũng như sau này, qua ít ngày theo Từ Hải ngang dọc, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Còn trong Tắt đèn, hành động khá nhất của chị Dậu là dám túm lấy cổ cai lệ đến thu thuế, ấn dúi hắn ra cửa, tiếp đó túm tóc lẳng cho tên người nhà lý trưởng ngã nhào ra thềm, rồi bị giải lên phủ, cuối cùng phải đi làm vú lấy tiền trả nợ.
Về nhiều phương diện, trong chị Dậu thấy lặp lại cái phần thiếu xót nằm sâu trong tính cách cô Kiều thân thiết của tất cả chúng ta. Họ đều là những người không có được sự hiểu biết sâu sắc về hoàn cảnh xã hội nói chung, về tình thế của mình nói riêng, do đó trên đường đời nhiều phen rơi vào bị động bất lực.
Trong Truyện Kiều, khi gia đình khó khăn thì Kiều chỉ biết có cách khóc lóc rồi sẵn sàng bán mình cứu cha, dấn thân vào cuộc sống phong trần; cũng như sau này, qua ít ngày theo Từ Hải ngang dọc, Kiều khuyên Từ Hải ra hàng. Còn trong Tắt đèn, hành động khá nhất của chị Dậu là dám túm lấy cổ cai lệ đến thu thuế, ấn dúi hắn ra cửa, tiếp đó túm tóc lẳng cho tên người nhà lý trưởng ngã nhào ra thềm, rồi bị giải lên phủ, cuối cùng phải đi làm vú lấy tiền trả nợ.
Nhìn lại các nhân vật văn học tiền chiến được nhiều cảm
tình của bạn đọc như Mai trong Nửa chừng xuân của Khái Hưng, cô hàng xén hoặc
mẹ Lê trong các truyện ngắn của Thạch Lam, chúng ta cũng thấy những nét tương
tự.
Dù hiện ra với nhiều tính tốt, như mau
mắn, tử tế, nhân hậu, song thật khó lòng nói rằng đó là những nhân cách trưởng
thành và đạt tới một triết lý sống chắc chắn.
Trong khi khâm phục giá trị đạo đức của họ,
đồng thời phải nhận rằng cái tư cách nạn nhân có làm cho họ bé nhỏ đi ít nhiều.
Một loại nhân vật khác cũng gần với
Xuân là những Tám Bính, Bảy Hựu … trong các tác phẩm của Nguyên Hồng. Ở đây,
các vai lưu manh được miêu tả với đủ chuyện kinh thiên động địa. Chủ ý của
Nguyên Hồng là nhấn mạnh rằng ở những con người tưởng như đã tha hoá ấy, cái
phần lương tri tốt đẹp vẫn còn. Nhưng cũng chỉ có thế. Nhân vật của Nguyên Hồng
chưa ra khỏi thế giới nhỏ hẹp chật chội của lớp người bần cùng.
Còn Xuân của Vũ Trọng Phụng thì được
ném vào một trường hoạt động mới, để gia nhập vào cái thế giới rộng lớn mà
người ta chưa bao giờ đối mặt.
Biết mình xuất thân hèn hạ, Xuân không mặc cảm, mà vẫn hồn nhiên tham gia vào những việc có vẻ như rất trọng đại. Và nhất là vẫn giữ được một sự chủ động hiếm có. Đằng sau câu chuyện mê tín ( vốn là một thói xấu phổ biến ở những con người bất lực trước hoàn cảnh nên dễ tha thứ), việc Xuân đi bói hé ra cho thấy một ám ảnh ghê gớm trong lòng nhân vật: Nó muốn có một ngày mai khác với hôm nay. Và nó tin rằng nếu biết cố gắng, thì cái hậu vận tươi sáng đó trước sau sẽ đến. Đây là một nét tâm lý chỉ thấy ở những con người có lòng tự tin mạnh mẽ và cảm giác đúng về cuộc sống trước mắt.
Biết mình xuất thân hèn hạ, Xuân không mặc cảm, mà vẫn hồn nhiên tham gia vào những việc có vẻ như rất trọng đại. Và nhất là vẫn giữ được một sự chủ động hiếm có. Đằng sau câu chuyện mê tín ( vốn là một thói xấu phổ biến ở những con người bất lực trước hoàn cảnh nên dễ tha thứ), việc Xuân đi bói hé ra cho thấy một ám ảnh ghê gớm trong lòng nhân vật: Nó muốn có một ngày mai khác với hôm nay. Và nó tin rằng nếu biết cố gắng, thì cái hậu vận tươi sáng đó trước sau sẽ đến. Đây là một nét tâm lý chỉ thấy ở những con người có lòng tự tin mạnh mẽ và cảm giác đúng về cuộc sống trước mắt.
Bàn về Chí Phèo như một siêu mẫu, nhà
nghiên cứu Đặng Anh Đào cho rằng qua anh Chí, Nam Cao đã thâu tóm được một khát
vọng nóng bỏng của con người trong mọi thời đại, đó là khát vọng hoàn lương,
khát vọng đổi đời (4). Trở lại với Số đỏ,
có thể thấy cả hai khát vọng đó cũng nằm sâu mãi trong tâm trí Xuân và dần dần
được thực hiện. Trong chương XVI, khi dẫn Xuân đi khai tên ở Tổng cục thể thao
( ngày nay gọi là đi đăng ký dự thi ), Văn Minh đã giúp chúng ta nhạn ra sự
thay đổi trong một chân dung. Chẳng những nhác trông thấy Xuân, Văn Minh đã
thầm nghĩ ngay rằng “ ừ cái mặt thằng này thế mà cũng đỡ ma cà bông rồi
đây”---, ở đoạn dưới, ông chủ cửa hàng Âu hoá còn nói thẳng với Xuân: “Từ khi
anh về giúp việc cho chúng tôi, là địa vị anh cứ dần dần thay đổi, cho đến bây
giờ thì anh đã nghiễm nhiên là một người khác“. Sự đổi đời không còn là cái ao
ước xa vời. Mà với Xuân nó đã trở thành hiện thực ! Có dễ trong văn học Việt
nam từ 1945 về trước, ít có nhân vật nào thành công một cách chính đáng như vậy.
Để đạt mục đích, đúng là Xuân có gặp may, nhưng sự may mắn như người ta thường
nói, chỉ đến với những con người có sự chuẩn bị đón nhận. Sự đổi đời ở đây là
một kết quả hợp lý, nó là phần thưởng sau bao kiên trì nỗ lực. Cái ý thức “mình
cũng có thể như mọi người, thậm chí làm hơn mọi người“ đã ăn sâu vào Xuân để
rồi cộng với những nỗ lực thích đáng, tự nó làm nên những cú vượt thoát ngoạn
mục.
Một bước phát triển
trong đời sống tinh thần
trong đời sống tinh thần
Để có thể thành công
trên đường lập nghiệp, một cá nhân phải có sự trưởng thành trong trình độ làm
người. Trên nhiều phương diện, Xuân của Vũ Trọng Phụng đã đáp ứng nhu cầu đó.
Nghe ra có vẻ hơi kỳ, nhưng vẫn có thể nói Xuân là một tính cách chắc chắn, ổn
định, ít nhất là trên mấy khía cạnh sau đây :
1/ Xuân rất nhạy cảm, nên thường nhận thức rõ tình cảnh mà mình rơi vào và có sự đáp ứng khá hợp lý. Vừa sống, nó vừa nhìn vào những người chung quanh lo học hỏi và tìm cách đáp ứng cái vai trò mà mọi người trông chờ ở mình. Vả chăng, đó không phải là cách thích ứng hèn hạ, thích ứng với bất cứ giá nào đến nỗi tha hoá, tức đánh mất mình. Với cái vẻ “ thạo đời và tinh quái sẵn có “, dù phải làm gì thì Xuân vẫn là Xuân, đồng thời lại dần dà nâng được địa vị của mình lên một cách đàng hoàng. Đọc những câu như “ Xuân trầm tư mặc tưởng “, hoặc “ tự nhiên nó quá đứng đắn, rất có ý tứ “, mới đầu nhiều người có thể bỏ qua, tưởng chỉ là một câu đùa giỡn của Vũ Trọng Phụng, song những nét chấm phá đó hoàn toàn nhất trí với sự trưởng thành , cái điểm chín phải đến của tính cách Xuân nói chung. Thành thử có thể nói nếu có đùa thì đó là một trò đùa rất nghiêm chỉnh. Và cả cuốn Số đỏ được viết theo kiểu “ đùa rất nghiêm chỉnh “ ấy.
2/ Xuân sống tự trọng. Nhiều lần ta bắt gặp ở nó “cảm giác hổ thẹn “. Hứa với ai điều gì, là nó lo thực hiện. Ai làm ơn cho nó, nó đều nhớ. Có lỗi với ai ( kể cả cái lỗi lớn là chiều ý bà Phó Đoan khi về ở nhà bà), nó áy náy không yên và tìm đủ cách chuộc lỗi. Vậy là có một chút gì đó thuộc về lương tâm vẫn còn sống mãi trong lòng Xuân.
1/ Xuân rất nhạy cảm, nên thường nhận thức rõ tình cảnh mà mình rơi vào và có sự đáp ứng khá hợp lý. Vừa sống, nó vừa nhìn vào những người chung quanh lo học hỏi và tìm cách đáp ứng cái vai trò mà mọi người trông chờ ở mình. Vả chăng, đó không phải là cách thích ứng hèn hạ, thích ứng với bất cứ giá nào đến nỗi tha hoá, tức đánh mất mình. Với cái vẻ “ thạo đời và tinh quái sẵn có “, dù phải làm gì thì Xuân vẫn là Xuân, đồng thời lại dần dà nâng được địa vị của mình lên một cách đàng hoàng. Đọc những câu như “ Xuân trầm tư mặc tưởng “, hoặc “ tự nhiên nó quá đứng đắn, rất có ý tứ “, mới đầu nhiều người có thể bỏ qua, tưởng chỉ là một câu đùa giỡn của Vũ Trọng Phụng, song những nét chấm phá đó hoàn toàn nhất trí với sự trưởng thành , cái điểm chín phải đến của tính cách Xuân nói chung. Thành thử có thể nói nếu có đùa thì đó là một trò đùa rất nghiêm chỉnh. Và cả cuốn Số đỏ được viết theo kiểu “ đùa rất nghiêm chỉnh “ ấy.
2/ Xuân sống tự trọng. Nhiều lần ta bắt gặp ở nó “cảm giác hổ thẹn “. Hứa với ai điều gì, là nó lo thực hiện. Ai làm ơn cho nó, nó đều nhớ. Có lỗi với ai ( kể cả cái lỗi lớn là chiều ý bà Phó Đoan khi về ở nhà bà), nó áy náy không yên và tìm đủ cách chuộc lỗi. Vậy là có một chút gì đó thuộc về lương tâm vẫn còn sống mãi trong lòng Xuân.
Chính tác giả
cũng đã mấy lần viết những câu tạt ngang đại loại “Vốn là người cũng có lương
tâm nó nhận thấy rằng …” hoặc “ Nó hiểu ngay ra nghĩa chữ tín ở đời “.
Với niềm tự tin
sẵn có, Xuân sẵn sàng đối mặt với sự thật : Thấy có người nói xấu mình, nó đi
hỏi bằng được. Tức là nó muốn tìm tới một sự sòng phẳng, một điều mà người ta
hay nghĩ rằng những ai xuất thân hèn hạ và thiếu tự tin không bao giờ có.
3/ Ở Xuân sớm hình thành một thói quen, đúng hơn một định hướng sống khá chính xác: Nó không nhẫn nhục cam chịu sống với cái vị trí mà người ta đẩy nó vào hoặc khép mình theo những chuẩn mực mà xã hội áp đặt cho loại người lưu manh.
3/ Ở Xuân sớm hình thành một thói quen, đúng hơn một định hướng sống khá chính xác: Nó không nhẫn nhục cam chịu sống với cái vị trí mà người ta đẩy nó vào hoặc khép mình theo những chuẩn mực mà xã hội áp đặt cho loại người lưu manh.
Một đặc tính của các nhân vật tiểu thuyết mà
các nhà lý thuyết thường nêu: đó phải là những con người có tinh thần chống lại
số mệnh. Xuân có cái tinh thần đó. Những nền nếp cũ không hề có mặt để trói
buộc nó. Một cách chủ động, nó dám sống khác với thói thường, miễn thấy đó là
phải. Nói cho to tát, tức nó muốn sống theo đúng tầm vóc của con người nói
chung. Trong việc này, cái lý lịch “trên không chằng dưới không rễ “ của nhân
vật trở nên một điều kiện thuận lợi. Nó dễ dàng tìm cho mình một sự tự do với
đúng nghĩa của từ này. Trên đường lập nghiệp, nó không sớm cầu an và dừng lại
giữa chừng, mà quyết đoạt được tới hiệu quả cao nhất có thể có. Việc Xuân vươn
ra ở trình độ quốc gia ( dù là trên lĩnh vực thể thao ), cho thấy về căn bản,
định hướng sống của nó là đúng.
4/ Một điều kiện nữa giúp Xuân thành công mà cũng là dấu hiệu cho thấy nó đã đạt đến trình độ khá cao trong sự phát triển lý tính, ấy là việc Xuân rất hiểu mình cũng như vị trí của mình trong con mắt mọi người.
4/ Một điều kiện nữa giúp Xuân thành công mà cũng là dấu hiệu cho thấy nó đã đạt đến trình độ khá cao trong sự phát triển lý tính, ấy là việc Xuân rất hiểu mình cũng như vị trí của mình trong con mắt mọi người.
Có
lần tả Xuân cáu, tác giả bảo rằng “ lúc ấy Xuân quên hẳn mình. Nó đã bất tự tri.”.
Một lời chê nhỏ như vậy thực ra là một lời khen lớn: Tức là hàng ngày Xuân vẫn tự tri. Cái sự tự tri ( tự biết chính
mình ) ấy đã thành một bản tính tự nhiên, chỉ thỉnh thoảng nó mới quên. Hãy đọc
lại đoạn Văn Minh báo với Xuân cái việc định gả em gái là Tuyết cho nó. Những
tưởng đang trong cảnh long đong kiếm sống, vớ được vợ giàu chẳng khác chết đuối
vớ được cọc, Xuân phải túm ngay lấy cơ hội. Đằng này không, Xuân lập tức trả
lời là mình không dám nhận. Và trước mặt ông anh vợ tương lai, nó nói thẳng
rằng mình “không cha không mẹ, lêu lổng từ bé, nhặt ban quần, bán phá sa, đã
làm nhiều nghề hèn “.
Nói như các cụ ngày xưa, vậy là Xuân
thuộc loại tri kỷ tri bỉ, biết mình
biết người ; hoặc theo thuật ngữ của tâm lý học, ở nó có một sự tự ý thức khá
đầy đủ. Nó không quên quá khứ, càng không mắc bệnh hoang tưởng. Trong cái năng lực tự ý thức ấy, có mặt cả sự tự tin, tỉnh táo, lẫn sự lương thiện,
bấy nhiêu lý do cùng lúc khiến cho người đọc buộc phải nhận rằng mặc dầu thuộc
loại ở mãi dưới đáy xã hội nhưng Xuân chưa bị làm hỏng. Chẳng những thế, còn có
thể nói nó đã hấp thụ được một trong những cách nghĩ mới mẻ mà xã hội hiện đại
vừa mang tới cho con người đương thời. Sự tỉnh táo của Xuân lúc này có thể sánh
ngang với Chí Phèo khi Chí cãi lại Bá Kiến “ Không được ! Ai cho tao lương
thiện …Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! “ mà nhiều người
vẫn ca ngợi.
Con người hiện đại,
anh là ai ?
Sau
khi kể lại tỉ mỉ việc Xuân gia nhập vào xã hội của những bà phó Đoan, Văn Minh,
đến chương XIV, Vũ Trọng Phụng để hẳn mấy trang nói riêng về việc Xuân tóc đỏ
được mọi người đánh giá ra sao. Điều này không chỉ là nhu cầu của người trong
cuộc mà còn là của chính độc giả theo dõi câu chuyện. Thế nhưng rút cuộc Xuân
là người thế nào? Chịu, những người thường xuyên tiếp xúc với Xuân mỗi người
một ý, không ai xác định được cho chính xác. Người yêu người ghét, người này
thấy Xuân vô tích sự, người khác lại thấy Xuân được việc. "Người chê Xuân vô
học, người lại quả quyết rằng về học thức của Xuân thì đã mấy ai bằng “.. Tác giả viết vậy và ông chốt lại bằng một câu buông lửng: “Sau cùng thì không còn một ai biết
rõ cái giá trị của Xuân là đáng khinh trọng thế nào nữa“.
Việc một nhân vật trở
nên một cái gì người ta không kết luận được như thế này không chỉ khiến cho câu
chuyện đọc thêm hấp dẫn, mà suy cho cùng, nó càng chứng tỏ nhân vật có phần
vượt khỏi tầm tay của tác giả như phần trên chúng tôi đã lưu ý.
Hơn nữa đây cũng chính là một đặc điểm người
ta thường thấy ở loại nhân vật hiện đại trong văn học. Những ai có dịp tìm hiểu
văn học phương Tây thế kỷ XX hẳn biết nhân vật trong các tiểu thuyết thời nay
có sự phát triển khá lạ lùng. Nói chung, không bao giờ họ nằm yên trong những
cái khung xã hội mà người đọc quen hình dung.
Họ vào đời như dấn thân vào những cuộc phiêu
lưu.
Dường như mỗi người
bị đẩy đi giữa một đám đông hỗn độn và toàn bộ nỗ lực của họ là tìm cách tự
khẳng định mình trong sự hỗn độn đó.
Có khi họ thấy đời là một cuộc chơi và quá trình chơi thú vị hơn kết quả.
Lại có khi họ bị ám ảnh bởi ý nghĩ điều gì cũng có thể xảy ra đối với mình, cả điều xấu nhất lẫn điều tốt nhất.
Có khi họ thấy đời là một cuộc chơi và quá trình chơi thú vị hơn kết quả.
Lại có khi họ bị ám ảnh bởi ý nghĩ điều gì cũng có thể xảy ra đối với mình, cả điều xấu nhất lẫn điều tốt nhất.
Khi giả thiết rằng thế giới này là điên rồ và
mình cũng chẳng thoát khỏi cơn điên ấy, con người trong tiểu thuyết hiện đại
không còn bị ám ảnh quá đáng bởi lương tâm và các vấn đề đạo đức. Đường đời của
nhiều nhân vật lúc này phần lớn phụ thuộc vào việc họ tự chế ngự những mặc cảm
cuối cùng còn sót lại trong người, để hiện thực hoá cho được những tiềm năng
sẵn có.
Bảo rằng họ thành
công cũng được, thất bại cũng được.
Không cần khiên
cưỡng gì lắm, cũng có thể nói rằng người ta dễ dàng tìm thấy một số đặc điểm
trên đây trong tính cách và số phận Xuân tóc đỏ, và chắc
chắn là rồi đây, khi cần nghiên cứu kỹ càng đầy đủ hơn vấn đề hiện đại hoá của
con người Việt Nam thế kỷ XX, Xuân còn được nhắc tới như một dẫn chứng độc đáo.
Sở dĩ văn học thế kỷ
XX đưa ra loại nhân vật nói trên, bởi ngay trong đời sống, những con người loại
này đã hình thành, và chính sự đổi khác của đời sống buộc tiểu thuyết phải khác
trước thì mới biểu hiện được cái đời sống đã thay đổi đó.
-- Nay là thời mà lối
viết trữ tình hoặc để cho dốc bầu tâm sự không còn được thịnh hành, và một khi
bị mang áp đặt, thì cả những tình cảm tốt cũng dễ bị dị ứng”.
-- Những hài kịch
phi lý, đó là cách tốt nhất để viết về cái thế giới kỳ cục mà người ta đang
sống.
-- Tính hiện đại mang
trong nó sự giải phóng cá nhân, sự thế tục hoá toàn bộ những tiêu chuẩn giá trị,
sự phân hoá không thể kết hợp của chân thiện mỹ .
Những nhận định
loại đó rất dễ gặp trong các tài liệu nghiên cứu viết về văn học phương Tây hiện đại.
Tương tự như vậy,
có thể nói sở dĩ Xuân tóc đỏ có thể có mặt và tự do đi về trong kiệt tác của Vũ
Trọng Phụng, ấy là bởi chính sự phát triển của hoàn cảnh đã mở ra những tiền đề
cho loại nhân vật này phát triển.
Từ chỗ là một
thực thể cổ lỗ ngưng đọng, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đã trở thành một
xã hội hiện đại một cách nhanh chóng đến mức tự nó cũng kinh ngạc về sự biến
chuyển của chính mình. Trong lúc chưa thể tự nhận diện một cách chính xác,
người ta đành tạm bằng lòng với những giả thiết chung chung, kể cả những nhận
thức tưởng là gần đúng mà thực ra là lầm lẫn.
Ở chương VII của Số đỏ, tác giả kể khi cụ tổ tám mươi ốm,
có một người con (cũng đã già) gọi là ông Hai ở nhà quê ra chơi, và Vũ Trọng
Phụng không quên nói rằng trong con mắt của ông Hai mọi chuyện lúc bấy giờ thật
là kỳ quặc.
Quả thật, hai chữ kỳ quặc đã diễn tả chính xác
cái ấn tượng mà nhiều người bình thường có được từ cuộc sống và con người ở Hà
thành khoảng những năm ba mươi của thế kỷ trước.
Bởi suy cho cùng
cái nhìn của ông Hai nói ở đây có liên quan tới cái nhìn của những người nông
thôn, là nơi mà công cuộc hiện đại hoá chưa vượt qua được lớp vỏ khô cứng đã
hình thành từ nhiều thế kỷ.
Điều quan trọng hơn là cho đến những năm
cuối của thế kỷ XX, đầu XXI, cái nhìn loại này vẫn được nhiều người vô tình lặp
lại. Thành thử, những thành kiến kéo dài với một nhân vật như Xuân tóc đỏ từ
trước đến nay kể ra cũng là tự nhiên, và chỉ có cơ thay đổi khi tiến trình hiện
đại hoá mà Xuân đã sống, đã vùng vẫy để tự khẳng định, được chúng ta nghĩ lại
cũng như đánh giá lại./.
----------------
Chú thích
(1) Một phần bài viết này này đã được in trong Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ Trọng Phụng NXB Văn học 2003.
(2) Ngay từ 1990, Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ đã sớm nhận xét “ Xuân tóc đỏ thực sự không chơi đểu với ai cả, chẳng qua những người chung quanh nhầm hoặc lợi dụng y “. Bài viết in trong Vũ Trọng Phụng, tài năng và sự thật, NXB Văn học 1998, tr 110.
(3) Khi sửa chữa lại bài trên và cho nó một cái tên khác là Dị ứng với cái rởm một phương diện của trào phúng Vũ Trọng Phụng ( in trong Bản sắc hiện đại …, sđd, tr 91 ) Hoàng Ngọc Hiến nhận xét : “ Xuân là sinh viên trường thuốc rởm là”thượng lưu trí thức “ rởm, là thi sĩ rởm … nhưng năng lực đánh quần vợt của Xuân là tài năng thực, hơn nữa một tài năng xuất chúng“ .
(4) Khả năng tái sinh của Chí Phèo, bài viết này có in lại trong Nam Cao, con người và tác phẩm, NXB Hội nhà văn,2000, tr 283.
----------------
Chú thích
(1) Một phần bài viết này này đã được in trong Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm Vũ Trọng Phụng NXB Văn học 2003.
(2) Ngay từ 1990, Hoàng Ngọc Hiến trong bài viết Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ đã sớm nhận xét “ Xuân tóc đỏ thực sự không chơi đểu với ai cả, chẳng qua những người chung quanh nhầm hoặc lợi dụng y “. Bài viết in trong Vũ Trọng Phụng, tài năng và sự thật, NXB Văn học 1998, tr 110.
(3) Khi sửa chữa lại bài trên và cho nó một cái tên khác là Dị ứng với cái rởm một phương diện của trào phúng Vũ Trọng Phụng ( in trong Bản sắc hiện đại …, sđd, tr 91 ) Hoàng Ngọc Hiến nhận xét : “ Xuân là sinh viên trường thuốc rởm là”thượng lưu trí thức “ rởm, là thi sĩ rởm … nhưng năng lực đánh quần vợt của Xuân là tài năng thực, hơn nữa một tài năng xuất chúng“ .
(4) Khả năng tái sinh của Chí Phèo, bài viết này có in lại trong Nam Cao, con người và tác phẩm, NXB Hội nhà văn,2000, tr 283.
Đã in dưới nhan đề BIỆN HỘ CHO XUÂN TÓC ĐỎ
Văn Nghệ số 42 ngày
16/10/2004