Trích từ chuyên mục
Người xưa cảnh tỉnh
đã in trên Thể thao và văn hóa 2005-2007
Các đầu đề nhỏ và chú thích là của người biên soạn
Nhắm mắt bắt chước điều không hay
của cổ nhân và ngại thay đổi
Người nước chúng ta sự tính lợi hại xét hơn thua không rõ, cứ người sau thì làm theo những điều người trước hay làm. Bởi vậy cho nên cả nước giàu không đặng giàu nhiều, nghèo thì nghèo đến đỗi không áo không quần mà thay, rồi mỗi mỗi cứ đổ lỗi cho trời cho số, cho ngày sinh tháng đẻ.
Cổ đạo (1) là những lẽ phải: có vua tôi, có cha con, có anh em, có vợ chồng, có bạn hữu; nếu người nay mà trái những điều đó mới mang tai (2).Chớ ví như đổi tục gian ra ngay, tục làm biếng ra siêng, đổi dối ra thiệt, tục nghịch ra thuận, tục ngu ra trí, tục hèn ra sang, tục dơ ra sạch, tục vụng ra khéo, tục trược (3) ra thanh, đổi như vậy thì là phải lắm.
Xin hãy coi gương người dị quốc (4), hoặc phương đông phương tây, phương nam cùng phương bắc, người ta thường hay đổi hay sửa, ít bắt chước những điều tệ của người trước; bởi vậy nay người ta thanh lịch lắm. Nếu mà cứ theo tục sai không đổi thì quả là khờ và bị thiệt hại.
(1) đạo lý cổ truyền;
(2) chịu những điều khốn khổ, có hại
(3) trược tức là trọc, có nghĩa là đục, không trong sạch
(4) người các nước khác
Lương Dũ Thúc
Nông cổ mín đàm, 1902
Dễ học cái dở
Người bổn quốc chúng ta lúc này cũng đã có nhiều người thành thị lịch lãm về sự dinh dãy(1), cách ở ăn sạch sẽ, về lệ luật phép tắc thông thạo nhiều; tôi chỉ không hiểu cho rõ làm sao mà thông thái mau hết ức về việc xa xỉ, về lý tự bạo(2), mà không thông thái về cách tính toán về phép thương cổ (3), không có thấy bày ra hãng buôn nào cho lớn làm nghề nào cho to; vụ lợi (4) thì không làm, còn vụ hại thì thích lắm.
Trong năm mười năm tới nữa mà cứ không buôn lớn và không học nghề chi cho giỏi, thì kẻ nghèo khó còn thặng (5) trên số ngàn nữa.
(1) chỉ lối sống sang trọng
(2) chỉ tham vọng muốn trở nên ông kia bà nọ.
(3) buôn bán
(4) việc sinh lợi
(5) dư ra
Lương Dũ Thúc
Nông cổ mín đàm 1902
Học thuật hủ bại
Cách học của ta trái phép sư phạm.
Tự lúc nhỏ cho đến lúc lớn chẳng qua chỉ học trong hai khoa là luân lý với văn chương. Mà luân lý thì lại theo nghĩa hẹp hòi, bó mình vào trong lễ phép, làm cho người ta không thể theo được.
Văn chương thì cũng phù phiếm, người nước Nam mà bàn việc Nguyên Minh Đường Tống, ngồi xó nhà mà tả những cảnh Hoàng Hà Thái Sơn, thực là ngồi Cầu Đơ mà nói chuyện quán Mọc(1).
Văn chương như thế thì thì vẽ sao được cái chân cảnh tạo hoá mà cảm động được lòng người.
Ngoài khoa văn chương với luân lý thì không còn khoa gì nữa, thể thao chẳng có, kỹ nghệ cũng không. Ai học rộng ra đến thiên văn địa lý y khoa lý số một đôi chút đã cho là vạn sự xuất ư nho (2) mà rút lại thì chẳng nghề gì là học cho đến nơi đến chốn.
Học thuật của ta hủ bại như thế, trách nào mà tri thức của ta chẳng mờ mịt, văn minh của ta chẳng kém xa các nước.
(1) Cầu Đơ tên cũ của thị xã Hà Đông; quán Mọc nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội
(2) Mọi chuyện bắt đầu từ ở đạo nho
Phan Kế Bính
Việt Nam phong tục, 1915
Học để kiếm gạo
Đi học để kiếm gạo (1), tệ hại lớn lắm. Vì cốt kiếm gạo thời cái mục đích đã dở; hoặc nhân vì mục đích đó mà sinh ra hay giả dối, hay tham lợi riêng; cốt được gạo thời thôi, đạo đức mà chi, hợp quần mà chi, ái quốc mà chi, trăm việc hỏng trớt.
(1) hiểu theo nghĩa rộng: chỉ cốt sinh lợi, có tiền
Phan Bội Châu
Lời hỏi các bạn thanh niên, 1928
Học để làm quan
Người nước mình từ xưa đến nay, cái tâm lý đối với việc học là học mà đi thi; đi học cũng như đi buôn bán hay làm nghề, cái mục đích chỉ là cầu lợi mà thôi.
Tiếng rằng nước mình tôn sùng đạo Khổng, song đó là vì học đi thi mà tôn sùng, chứ không phải vì tôn sùng mà phải học.
Cho nên ngày trước triều đình thi Hán tự thì người mình lo học Hán tự để lấy ông cử ông nghè; ngày nay chính phủ bảo hộ thi Pháp văn thì người mình lo học Pháp văn để lấy ông tham ông phán.
Ngô Đức Kế
Nền quốc văn, Hữu thanh, 1924
Học đòi vặt vãnh
bỏ qua chuyện lớn
Quái lạ cho người đời, hễ ai bảo cải lương lối nhà cửa ở, hay là cải lương cách ăn mặc bắt chước theo lối Âu Tây, thời đua nhau như vịt; còn nhỡ ai khuyên bảo nên cải lương những thói xấu nết hư -- chốn hương thôn không nên tranh giành kiện tụng nhau, ở với bè bạn thời phải giữ lòng trung tín -- thời dẫu nói rát cổ bỏng họng cũng chỉ lờ đi, chớ không thèm nghe.
Nguyễn Bá Học
Di ngôn, do Nguyễn Bá Trác thuật, Nam Phong, 1921
Nặng tính hiếu kỳ
Cái tính hiếu kỳ là cái bệnh chung trong lối học của ta, xưa kia học chữ Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng mà khinh rẻ những cái của mình.
Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó nghiên cứu, cái gì của mình cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới.
Thành ra núi sông đình miếu nước Tàu thì biết mà núi sông đình miếu nước mình thời không hay; danh lam thắng tích bên Tàu thì rõ mà danh lam thắng tích nước mình thì không tường; lịch sử địa dư nước Tàu thì thiệp liệp (1), mà lịch sử địa dư nước mình thời mịt mù; phong tục nhân vật nước Tàu thời tường tất mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm.
Mà có phải mình thiếu gì cái đẹp cái hay, cái đáng ngắm …
(1) cũng có hiểu ít nhiều
Dương Quảng Hàm
Học sao cho phải đường, Hữu thanh, 1921
Thần trí bạc nhược, thiếu óc tự lập
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm thày trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn không khỏi cái tư cách làm học trò!
Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế...
Xưa khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi, chưa mấy ai là rõ rệt có cái tư cách --- đừng nói đến tư cách nữa hãy nói có cái hy vọng mà thôi –, muốn độc lập trong cõi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
(1) suốt đời
Phạm Quỳnh
Bàn về quốc học, Nam phong, 1931
Như cái cây bị “cớm”
Địa lý, lịch sử, chính trị đều như hiệp sức nhau lại mà gây cho nước ta một cái tình thế rất bất lợi cho sự học vấn tư tưởng. Bao nhiêu những người khá trong nước đều bị cái tình thế ấy nó áp bách trong mấy mươi đời nên dần dần lập thành một cái tâm lý riêng, là cái tâm lý ỷ lại vào người chứ không dám tự lập một mình; trong việc học vấn thì cái tâm lý ấy là tâm lý làm học trò suốt đời. Nước ta ở ngay cạnh nách nước Tàu, từ hồi ấu trĩ cho đến lúc trưởng thành đều nấp bóng nước Tàu mà sinh trưởng, khác nào như một cái cây nhỏ mọc bên một cái cây lớn, bị nó “ cớm “ không thể nào nẩy nở lên được.
Nhật Bản cũng là học trò của Tàu, cũng mô phỏng văn hoá Tàu trong mấy mươi đời, nhưng họ biết lựa lọc kén chọn, họ không có phóng chép một cách nô lệ như mình, cho nên tuy về đường tư tưởng vẫn chịu ảnh hưởng của Tàu nhiều, nhưng họ cũng có một nền quốc học của họ dầu không rực rỡ cho lắm, vẫn có đặc sắc khác người.
Đến như ta thì khác hẳn. Ta học của Tàu mà chỉ học thuần về một phương diện cử nghiệp là cái học rất thô thiển, không có giá trị gì về nghĩa lý tinh thần; mài miệt về một đường đó trong mấy mươi đời, thành ra cái óc tê liệt đi mà không sản xuất ra được tư tưởng gì mới lạ nữa.
Phạm Quỳnh
Bàn về quốc học, Nam Phong, 1931
Con ma cử nghiệp giết chết sự học
Bệnh căn của cõi học ta xưa, một là vì xã hội cẩu thả mà toàn mô phỏng, một nữa là vì kẻ học giả ham cái cận lợi (1) khoa cử.
Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy vọng ta phải hết sức từ bỏ căn bệnh cẩu thả đi, trừ bỏ cái tính tự tiện tự khí đi (2). Không thì về xã hội lại cứ lười biếng a dua không suy xét lựa chọn, không có cái tinh thần tự giác tự tín; về kẻ học giả lại cứ tham cái cận lợi nhai văn nuốt chữ, lấy học đường của nước văn minh làm con đường tắt hiển vinh. Bộ “ lều chiếu chõng lọ “ đã phá đập ở trường thi rồi, con ma nghiện cử nghiệp lại bò vào nơi “mễ đỏ bảng đen” ám ảnh. Thì học đến bao giờ cũng chung vô sở đắc (3); mà dù có sở đắc được tí gì cũng chẳng để ý đến.
(1) cái lợi trước mắt
(2) tự mình coi rẻ coi thường mình
(3) cuối cùng không thu được cái gì là của mình
Nguyễn Trọng Thuật
Điều đình cái án quốc học,1931
Có khoa cử mà không có sự nghiệp
Nho học có lợi cho cái chính thể quân chủ chuyên chế nên các đế vương nước ta lại càng tôn sùng lắm. Cái chế độ khoa cử thật là một cái quà rất hại mà nước Tàu đã tặng cho ta. Ngay bên Tàu nó đã hại mà sang đến ta cái độc của nó lại gấp mấy lần nữa.
Người Nhật Bản họ hơn mình, chính là vì họ không mắc phải cái vạ khoa cử như mình. Họ bắt chước cái gì của Tàu thì bắt chước, chứ đến cái lối khoa cử thì họ không chơi. Đời Đức Xuyên ( Tokugawa ) cũng đã có một hồi thi hành cái chế độ hãm hại nhân tài nô lệ thần trí đó, nhưng sĩ phu trong nước họ không chịu nên cũng không thể bền được.
Ở nước ta thì đến hơn sáu trăm năm sinh trưởng trong cái chế độ ấy, trách nào cái khí tinh anh trong nước chẳng đến tiêu mòn đi hết cả. Ở Văn Miếu Hà Nội còn mấy dãy bia kỷ niệm các cụ đỗ tiến sĩ về đời Hậu Lê, trong đó chắc có nhiều bậc nhân tài lỗi lạc, nhưng vì mài miệt về đường khoa cử, nên đều mai một mất cả; tên còn rành rành trên bia đá đó, mà có sự nghiệp về đường học vấn tư tưởng được như ai ?!
Phạm Quỳnh
Bàn về quốc học,1931
Giáo dục hiện đại bị thương mại hóa
Đứa trẻ ở nhà đã không được trông nom dạy bảo cho phải đường, đến trường lại bị giao cho những ông giáo phần nhiều chưa biết làm một người cha, chưa được thành thục về khoa giáo dục, chưa có kinh nghiệm về tâm lý học, chưa được thuần về tính nết …
Trong nước có biết bao nhiêu trường tư. Gia dĩ mở một trường tư cũng không khác gì mở một hiệu buôn. Nhà hàng phải chiều khách, các ông kinh doanh về tư thục – tôi nói kinh doanh mà không nói giáo dục – muốn cho trường mình được vững vàng tức là muốn cho có nhiều lời lãi, tất phải chiều theo thị hiếu của học sinh vốn là những khách hàng rất khó tính.
Thái Phỉ
Một nền giáo dục Việt Nam mới, 1941
Thiếu niên hư hỏng
Đa số thiếu niên lầm tưởng rằng tuổi trẻ là tuổi có thể nói hay làm bất cứ cái gì chướng tai gai mắt mà có tính cách vui đùa, chẳng sợ ai chấp trách gì cả. Họ sỗ sàng cấc lấc. Họ nói bô bô ở ngoài phố những chuyện người ta thường chỉ nói nhỏ ở trong buồng kín. Đứng trước những bậc huynh trưởng, họ cũng vô tình buột ra những ngôn ngữ hay lộ ra những cứ chỉ rất khả ố. Bị các báo chí hài hước và trào phúng làm hại, họ không còn coi cái gì là nghiêm trang đứng đắn cả, họ hoài nghi tất cả. Cái gì đối với họ cũng như trò đùa.
Gặp việc gì hơi khó nhọc, có tính cách trừu tượng hay cần đến kiên nhẫn là họ ngại ngùng. Đi học, họ thích nghe thầy giáo nói chuyện hơn là nghe giảng bài hay phải chép bài. Họ không thể và không muốn nỗ lực. Ở nhà họ không muốn mó đến một công việc gì, dù là việc rất nhẹ nhàng.
Thái Phỉ
Một nền giáo dục Việt Nam mới, 1941
Đỗ đạt là xong, không còn cầu học
Phải nhận rằng người mình không ham học mấy. Thí dụ như người đỗ bằng tốt nghiệp, có công ăn việc làm thì thôi, không chịu học thêm.Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho bấy nhiêu là để cho mình tạm đủ sức mà học lấy; khi ở trường ra mới là chỗ khởi hành, mình lại tưởng đến nơi rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên anh em thanh niên học rõ nhiều, vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều lắm.
Nguyễn Văn Tố
Theo Lê Thanh, Cuộc phỏng vấn các nhà văn, 1943
Một nền giáo dục giết chết nhân cách
Phương pháp giáo dục ở ta cẩu thả thô sơ. Xong mấy quyển sách sơ học thì thày đem ngay các sách Bắc sử (1) và Ngũ kinh Tứ thư đại toàn ra dạy. Thày nhăm mắt mà giảng chữ nào nghĩa ấy, chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống nho; trò cũng nhắm mắt học cho thuộc lòng để đến khi hành văn nhớ lại mà đặt để.
Phương pháp giáo huấn vụng về chật hẹp như thế là do một nguyên nhân khác là chế độ khoa cử. Chế độ ấy cốt xô đẩy sĩ tử trong nước vào đường cử nghiệp hư văn.
Triều đình lại cho những người khoa mục nhiều điều vinh diệu quá đáng, nào trâm bào dạo phố, nào cờ biển vinh quy, cùng là khắc tên ở bia đá bảng vàng để lưu truyền cùng hậu thế.
Học trò chỉ chăm học thuộc lòng một ít sách vở, và lo lựa lời cho khéo, gọt câu cho chỉnh, miễn là lời văn cho bóng bảy thì ý tứ dù là bã cặn của Tống nho cũng không can gì.
Cái thói trọng từ chương ưa hư văn đã thành một thứ thiên tính của dân tộc ta. Với cách giáo dục ấy thì dù người thiên tư lỗi lạc cũng phải nhụt đi, huống gì người tư chất tầm thường, thực là một thứ giáo dục giết chết nhân cách.
(1) tức lịch sử Trung quốc. Sử ta thường gọi là Nam sử
Đào Duy Anh
Việt Nam văn hoá sử cương, 1938
Không có một nhà tư tưởng,
không có người khao khát tìm đạo lý mới
Vô luận là vấn đề gì, về quốc kế hay dân sinh cũng như về luân lý hay triết lý, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung quốc giải quyết sẵn cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì.
Trái lại cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại phải hãm lại cô lại cho vừa với kích thước khuôn khổ của chúng ta.
Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, người ta thấy có những nhà nho kinh luân như Tô Hiến Thành, nhà nho anh hùng như Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An, nhà nho khẳng khái như Nguyễn Trãi, mà tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng một nhà triết học nào.
Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có nhà nho nào dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xưa mà băn khoăn khao khát đi tìm đạo lý mới.
Đào Duy Anh
Việt nam văn hóa sử đại cương * 1950
*Đây là bộ sách Đào Duy Anh viết ở Thanh Hóa
những năm kháng chiến chông Phap.
Không phải Việt nam văn hóa sử cương 1938