MỘT NGUỒN ÁNH SÁNG KHÁC
(Vài kỷ niệm về ảnh hưởng của ngôn ngữ Pháp, văn hoá Pháp với những người cầm bút ở Hà Nội từ sau 1945)
I
Nhân nói chuyện gì đó có liên quan đến với đời sống văn nghệ ở Việt Bắc mấy năm 1946-1954, có lần tôi đã buột miệng nêu ra một nhận xét với nhà thơ Huy Cận:
Tác giả Lửa thiêng nhìn tôi tỏ ý ngạc nhiên. Thế hệ các ông là thế hệ đã được đào tạo từ nhà trường Pháp và sau đó bằng những cách khác nhau, chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám; rồi khi thực dân Pháp muốn cướp lại thành quả của cuộc cách mạng ấy thì lại sẵn sàng lên đường kháng chiến. Nghĩa là với các ông, quá trình trưởng thành, theo một nghĩa nào đó, cũng là quá trình từ bỏ cái ảnh hưởng đã hấp thụ được trên ghế nhà trường.
Sau chuyến thăm nước Pháp, năm 1946, Xuân Diệu đã nhận xét một cách liều lĩnh "văn hoá Pháp đã hết cái thời của nó" và cho rằng "văn hoá Việt Nam sẽ không đi theo nấm mồ văn hoá Pháp" (tạp chí Tiên Phong, cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc, số ra 19-8-1946).
Bài viết của Xuân Diệu không phải là xác đáng trên phương diện phán đoán, song vẫn dễ hiểu ở sự bồng bột tình cảm. Vậy thì cái nhận xét đột ngột của tôi, đối với Huy Cận, chắc giống như một điều trái khoáy, không dễ chấp nhận. Rồi chúng tôi cùng lảng ngay sang những chuyện khác, song về phần mình, tôi thấy không có gì phải hối hận vì sự buột miệng ấy, nó có lý do riêng của nó.
Từ những cuộc phiêu lưu giữa báo chí kháng chiến, không ít chi tiết mách bảo với tôi điều đó.
Nhìn vào tờ tạp chí của giới cầm bút ra đời từ 1948, tờ Văn Nghệ, sao thấy cái cách hình thành của nó quá gần gũi với những tờ báo hay nhất đã in ra hồi tiền chiến, từ Phong Hoá, Ngày Nay đến Tao Đàn, Thanh Nghị... Nghĩa là những kinh nghiệm làm báo viết sách của các văn nghệ sĩ lớp trước được mang ra tận dụng. Mục đích khác đi, song cách làm thì vẫn vậy, nếu có thay đổi thì cũng chỉ là gia giảm ít chút cho hợp với hoàn cảnh. Lại nữa, trên tờ Văn Nghệ ấy, ngay từ những số đầu tiên, tôi được đọc những bài điểm sách, trong đó có cả những cuốn sách mới in bên Pháp (cuốn Làng tôi giờ Đức chiếm của Jean -Louis Bory). Cũng phải nói thêm là hồi bấy giờ, tiếng Pháp cũng rất tiện cho những người muốn tìm hiểu đời sống văn nghệ Xô viết hoặc Bungari, Tiệp Khắc... Hồi còn làm ở Văn Nghệ quân đội, nhà thơ Vũ Cao có lần kể với tôi: đơn vị báo Vệ Quốc Quân, mà ông là một thành viên, có kiếm được từ Hà Nội mang lên mấy bộ Cơn bão táp của Ehrenburg, Đội cận vệ trẻ của Fadeev. Nghe tin, Nguyễn Huy Tưởng rồi Nguyễn Đình Thi nói tiếp nhau tìm đến ngồi lì ở cơ quan Vũ Cao để đọc, đọc bằng xong mới về. Vũ Cao mỗi khi kể lại câu chuyện này hay nói đùa , mình vừa phải cung cấp sách cho các bố ấy đọc, vừa phải nuôi báo cô, thế mà trong bụng cứ thấy sung sướng, như là làm được việc gì tử tế lắm!
II
Như các nhà nghiên cứu đã xác định, ngôn ngữ có tính độc lập tương đối của nó, so với mục đích. Đến như văn hoá mới thật kỳ lạ: trong khi không hoàn toàn vô can như ngôn ngữ, nó vẫn là một cái gì nằm ở những tầng rất sâu trong ý thức con người, trở thành mẫu số chung cho những người rất khác nhau. Lịch sử đã từng biết đến không ít những cuộc chiến tranh mà người ở hai bên chiến tuyến thuộc về cùng một nền văn hoá.
Rất nhiều thành viên tích cực của cuộc kháng chiến chống Pháp mà ở trên tôi vừa nhắc là những người đã ngồi trên ghế nhà trường thực dân, hơn nữa, còn là những học sinh xuất sắc. Nhà báo Pháp Léo Figuères, qua thăm vùng tự do của nước Việt Nam năm 1950, từng rất thú vị khi được biết nhiều cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam lúc ấy rất thành thạo tiếng Pháp. Còn nói chi là tới các cán bộ văn nghệ! Với việc ký kết hiệp nghị Genève, vai trò lịch sử của người Pháp ở Đông Dương đã chấm dứt. Song nếu tìm hiểu đời sống văn hoá văn nghệ ở Hà Nội sau 1954, sẽ thấy ngôn ngữ Pháp, văn hoá Pháp vẫn là một nhân tố đóng góp vào việc xây dựng nền văn hoá mới ở nước Việt Nam còn trẻ.
III
Những năm chống Mỹ, sách báo mới in ở Pháp chuyển sang thật ít ỏi, cơ quan tôi làm việc là tờ Văn Nghệ Quân Đội, nhờ quen biết lắm mới đặt mua được hai tờ báo là Văn học Pháp (Les Lettres Francaises) và Nhân Đạo Chủ Nhật (L' Humanité Dimanche). Nhưng đó lại chính là những tờ báo được các nhà văn trong cơ quan vồ vập nhất, cánh học sinh trung học cũ, những Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Nhị Ca... chuyền tay nhau để đọc.
Không chỉ riêng các nhà văn ở 4 Lý Nam Đế mà nhiều nhà văn ở 65 Nguyễn Du những năm ấy cũng tìm hiểu thời sự văn học thế giới qua các báo Pháp. Riêng nhà văn Nguyễn Khải hay lại phòng làm việc của tôi trò chuyện thì tự nhận là còn có may mắn hơn một chút. Ông mới được bổ sung vào ban thường vụ (giống như ban thư ký) của Hội Nhà văn. Mà một trong những quyền lợi của các thành viên ban thường vụ là được phép đọc một số sách loại hiếm bên Pháp người ta gửi cho, và phải qua nhiều cấp bảo trợ, Hội Nhà văn mới được nhận. Tôi nhớ vào thời điểm đó, những quyển sách loại livre de poche của Pháp thỉnh thoảng Nguyễn Khải mang về, gợi lên trong tôi những cảm giác thật lạ lùng. Trong khi những sách báo viết bằng tiếng Việt in ra bấy giờ giấy đen, chữ đã quá mòn, lại đóng bằng tay nên dễ xộc xệch, thì những cuốn sách kia mới gọn nhẹ thanh thoát làm sao mà vẫn chắc chắn làm sao! Do chỗ đạt tới sự hoàn hảo, nó cũng đồng nghĩa với văn hoá - cái đó ở trong hình thức mà cũng ở trong nội dung của mỗi cuốn sách.
IV
Nói cho công bằng, phải nhận là trong việc hình thành nền văn hoá riêng của nước Việt Nam từ sau 1945, những ảnh hưởng không phải chỉ đến từ văn hoá Pháp mà còn có vai trò văn hoá Trung Hoa, văn hoá Nga, và ở Sài Gòn trước 1975 là văn hoá Mỹ. Ngoài ra, do sự bùng nổ của quá trình giao lưu văn hoá trong thời hiện đại, tưởng như mấy chục năm qua, không nền văn hoá nào trên thế giới này là còn xa lạ với chúng ta.
Có điều, những ai có làm công việc dính dáng đến giấy bút chữ nghĩa đều biết trong sự tiếp xúc đa dạng này, để vượt qua ngỡ ngàng ban đầu, thường phải có những trung gian. Mà với người Hà Nội trước 1975, trung gian tiện nhất là văn hoá và ngôn ngữ Trung Hoa, cùng là văn hoá và ngôn ngữ Pháp. Những năm ấy, chẳng những Lê Phát dịch Phía tây không có gì lạ của Remarque, Trần Dần dịch Những người chân đất của Z. Stancu, Huy Phương dịch Ông già và biển cả của Hêmingway ra tiếng Việt thông qua các bản tiếng Pháp, mà cả các thiên truyện của N.Gogol, cả Anna Karénina của L.Tolstoi cũng dịch qua tiếng Pháp nốt. Tiếng Nga mới qua, chưa ăn rễ được sâu vào tiếng Việt. Người biết tiếng Pháp thật chín trong cái tiếng mình sử dụng, chín hơn hẳn so với người dùng tiếng Nga chín tiếng Nga. Các nhà văn rành về sách dịch bảo với tôi rằng bản dịch mấy truyện Gogol dịch từ tiếng Nga như một thứ mặt trái của tấm thảm, trong khi một vài truyện được dịch qua tiếng Pháp nhuần nhị hơn và chính xác hơn nhiều. Thành thử thứ lý luận của mấy dịch giả còn trẻ lúc ấy cho rằng nhất thiết phải dịch từ tiếng Nga nguyên bản mới có giá trị, thớ lý luận ấy bị những người thạo nghề coi là quá ấu trĩ.
Một sự thực khác: vào cái thuở ở Moskva người Nga biết tiếng Việt còn ít, những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc... mỗi lần tới Liên Xô hội họp thường vẫn có các bà phiên dịch thông thạo tiếng Pháp giúp đỡ.
Sau hết, có điều này tuy không tiện nói ra nhưng trong thâm tâm ai cũng biết và tự nguyện chấp nhận, ấy là trên nhiều phương diện, văn hoá Pháp vẫn được coi là chuẩn mực. Mặc dù chỉ biết tiếng Pháp đủ để đọc mấy cái tên riêng, tôi hay mò mẫm giữa đống Bách khoa toàn thư Pháp để xem những nhà văn Liên Xô nào được Pháp xem trọng, và quả thật tôi đã thấy yêu hơn, gần gũi hơn với những K.Paoustovski, Ts.Aitmatov, Ju.Trifonov... khi biết rằng tác phẩm của họ được những nhà xuất bản cỡ lớn ở Pháp như nhà Gallimard cho in.
V
Có những kỷ niệm không phải sự thành công, sự mỹ mãn tới đích, mà là cái gì dang dở không thành, nhưng chính vì vậy, người ta lại thấy nhớ mãi.
Câu chuyện người bạn đã quá cố của tôi là Xuân Quỳnh học tiếng Pháp thuộc loại những kỷ niệm như thế.
Sinh năm 1942, Quỳnh cũng như một số bạn bè thuộc về lớp người viết văn ở Hà Nội không được chuẩn bị một ngoại ngữ nào hết. Mà không biết ngoại ngữ, theo tôi, là thiếu cơ hội để hướng tới những chân trời cao rộng mà suy nghĩ - chúng tôi sớm cảm thấy như thế và càng nhìn vào các bậc đàn anh thạo tiếng Pháp càng buồn. Cũng may Xuân Quỳnh có một người bạn vong niên là nhà văn Vũ Thị Thường. Những năm từ 1975 về trước, nhà thơ Chế Lan Viên - chồng chị Thường - giúp vợ học tiếng Pháp theo một cách đặc biệt là học thẳng vào thơ, cứ một bên nguyên bản, bên bản dịch xuôi, đặt cạnh nhau mà đối chiếu. Thế là Quỳnh cũng mượn về chép rồi học cho thuộc.
Có một dạo đi đâu thì trong cái làn của Xuân Quỳnh cũng mang theo cuốn sổ có mấy bản dịch đó.
Trước sau 1986, nhà văn Vũ Tú Nam sau khi đi Pháp về có tặng cho Xuân Quỳnh một cuốn từ điển loại bỏ túi, Quỳnh lấy làm sung sướng lắm.
Sự học tiếng Pháp của Quỳnh đứt nối, dang dở, thu hoạch chả bao nhiêu - theo tôi nhớ đâu chỉ có một lần, với sự hỗ trợ của anh Ngô Vĩnh Viễn, Xuân Quỳnh có dịch được một bài thơ từ tiếng Pháp để đăng báo Văn Nghệ.
Câu chuyện Xuân Quỳnh học tiếng Pháp dừng lại ở đấy, song mỗi lần nhớ tới quá trình tự học của lớp người cầm bút cùng tuổi với mình, tôi lại nhớ tới nó - có thể là chúng tôi vô duyên, là thiếu một chút may mắn, song chúng tôi từng đã khao khát khôn nguôi, chúng tôi cũng muốn hiểu biết, giỏi giang, cũng muốn hướng về ánh sáng - ánh sáng đây trước tiên là văn hoá dân tộc, nhưng cũng là những nền văn hoá khác mà chúng ta có dịp tiếp xúc, trong đó có văn hoá Pháp (và đã có một thời thì trước tiên là văn hóa Pháp).
2003
LOUIS ARAGON, CON NGƯỜI CỦA NHỮNG ĐAM MÊ VÀ LẦM LẠC
Ngay cả trong thời kỳ kháng chiến 1946-54, giữa lúc mà máy bay Dakota, bom napan, súng cối của Pháp - đồng nghĩa với đau thương chết chóc, được gieo rắc, và hàng chục binh đoàn quân Pháp rải ra trên cả nước để chống lại ý nguyện giành độc lập của một dân tộc, thì nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam theo tiếng gọi của kháng chiến vẫn chuyền tay nhau ấn phẩm viết bằng tiếng Pháp, để tiếp thêm cho mình nghị lực. Và trong những ngày đó, bên cạnh những Maurice Thorez, Jolio Curie, Paul Eluard v.v... có tên một người Pháp nữa, trở đi trở lại trong tâm trí nhiều văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam, đó là Louis Aragon: một Aragon từng nát lòng vì Paris đang rên xiết dưới gót giày phát xít khi "Suối đã đục dòng chỉ lệ còn trong"; một Aragon có thơ được in bí mật, được người dân trong vùng địch hậu chuyền tay nhau và một Aragon ca ngợi Đảng của mình bằng những lời đẹp nhất:
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng
Trước như tuổi thơ tôi nào biết được
.,.
Đảng đã cho tôi màu sắc nước non nhà...
Trong bản dịch của Tố Hữu, lời thơ có gì gần gũi, như chính nó được viết bằng tiếng Việt.
Nhưng đó không phải là hình ảnh duy nhất về Aragon mà chúng tôi được biết. Từ sau 1956, khi mà nhiều trí thức châu Âu trải qua những xao động lớn lao về tư tưởng, hoặc nói như chính Aragon, khi mà gió đã xoay chiều, thì một Aragon khác lại hiện ra với những người cầm bút nơi đây, Aragon của tiểu thuyết Tuần lễ thánh, những tiểu luận như Tôi lật con bài của tôi, Phải gọi sự vật bằng cái tên của nó, và tập thơ Quyển truyện bỏ dở với bao đớn đau day dứt:
- Tôi chờ đợi một trùng dương hạnh phúc
Một tình ái không vương dây trần tục
Suốt bình minh đến chiều xẩm mơ hồ
Nhưng cuộc đời thực tại chẳng nghe cho
Đời tạo những diệu kỳ theo kiểu khác
Đào Xuân Quý dịch
hay:
- Hạnh phúc là một tiếng vô cùng chua chát
Ma quái nào che giấu nghĩa làm chi
Tóc ảo mộng và bàn tay huyền hoặc
Những cặp tình nhân ngày xưa đã mất
Hạnh phúc như vàng kia ôi tiếng dị kỳ
Nó lăn trên sàn như chiếc nhẫn lăn đi
Ai nói đến hạnh phúc mắt thường buồn da diết
Như tiếng than dài nỗi tuyệt vọng chua cay
Dây đàn dứt trong tay người đánh nhịp
Nhưng tôi cho hạnh phúc con người là có thật
Không phải trong mơ không phải trong mây
Mà nơi bến lạ bờ xa trên quả đất này
Tế Hanh dịch
Cũng may là ngay từ 1960, một tập thơ riêng của Aragon, đã được in ra với sự đóng góp của một lớp nhà thơ Việt Nam thạo tiếng Pháp. Đó là những Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Đào Xuân Quý, Nguyễn Viết Lãm... Nói may vì từ đó trở đi, nhất là từ sau 1965, ở Hà Nội chúng tôi, Aragon chỉ được nhắc tới một cách nhỏ giọt, và so với con người thật, và khối lượng tác phẩm đồ sộ của Aragon, thì chúng tôi được biết là rất ít, quá ít nữa.
Song cái lạ là ở chỗ ấy, có khi cái mà người ta không biết lại gần gũi hơn cái mà hàng ngày người ta vẫn thấy: từ đó cho đến khi nhà thơ qua đời, và ngay cả những năm về sau, Aragon trong một người như tôi đồng nghĩa với cả sự kiên trì làm người chiến sĩ lẫn sự dằn vặt trăn trở tìm đường mà bất cứ ai, sống với nghề cầm bút, từng có lúc trải nghiệm. Nhà thơ từng nói về mình, qua sự phân biệt với những người khác.
"Tôi biết có những người sinh ra với chân lý, từ trong nôi họ đã không bao giờ lầm lạc, vì họ đã đến nơi rồi từ lúc còn thò lò mũi xanh. Họ biết điều gì là tốt, từ trước đã luôn luôn biết như thế... Tôi không giống họ. Chân lý không được phát hiện với tôi vào lúc chào đời. Tôi không được cha tôi, cũng chẳng được giai cấp của gia đình tôi chỉ bảo cho. Tôi học hỏi được điều gì đều phải do lao tâm tổn trí, tôi biết được điều gì đều từ kinh nghiệm xương máu mà ra. Không có một niềm tin chắc chắn nào đến với tôi mà không phải qua con đường hoài nghi lo âu, đau đớn của từng trải".
Thêm vào đấy, một Aragon hào hoa phong nhã, Aragon trong mối tình điên dại với Elsa Triolet, Aragon và cuộc tìm tòi một thứ văn xuôi ảo, trong những tiểu thuyết Giết chết, Blanche hay lãng quên, bấy nhiêu hình ảnh nối tiếp nhau để làm nên Aragon của một tình yêu không dễ dãi.
Có một mẩu chuyện tuy nhỏ mà khiến tôi nhớ mãi, mỗi khi nhắc đến cái tên Aragon. Đây là câu chuyện liên quan đến nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả Đất nước đứng lên thuộc loại cán bộ quân đội được điều động trở lại chiến trường miền Nam rất sớm, từ 1962, và ông cũng thuộc loại ở đó kiên trì bậc nhất. Từ trước 1975, nhiều lần cấp trên tỏ ý sẵn sàng để ông ra Bắc chữa bệnh, Nguyên Ngọc vẫn xin phép được ở lại, chỉ yêu cầu thỉnh thoảng gửi vào cho ít sách. Trong số những cuốn sách mà Nguyên Ngọc nhờ người bạn mình ở tạp chí Văn nghệ quân đội là Hà Trì gửi vào năm ấy (trước khi đi chiến trường, có gì Nguyên Ngọc bó lại đem gửi Hà Trì cả), có một cuốn sách tiếng Pháp. Cuốn này Nguyên Ngọc mua được ở Moskva trong một chuyến thăm Liên Xô khoảng 1957-58 gì đó. Ấy là cuốn Le Roman innachevé (Quyển truyện bỏ dở) trong đó có cả những câu mà ở trên tôi vừa trích, và những câu khác, đại loại:
Tôi nghe tiếng gà trong cùng tận đau thương
Trong đổ nát tôi vẫn mang chiến thắng
Dù xé rách những vì sao xa vắng
Trong đêm dài tôi vẫn chói vừng dương
Aragon trong chúng tôi là thế. Có lẽ chính vì những vết thương mà thế kỷ đã để lại trong tâm hồn ông và cả những vết thương ông gây ra cho chúng tôi - từ chỗ là một con người cuồng nhiệt, đã có lúc ông trở thành tượng trưng cho một Juda phản bội (người ta cố nhét vào đầu chúng tôi như vậy), -- mà Aragon càng trở nên gần gũi. Sau này tôi còn được biết thêm một vài nhà văn nhà thơ Pháp khác cũng sống trong thế kỷ XX lớn lao và đau đớn này. Có người tỉnh táo hơn, chắc chắn là nhiều người sâu sắc hơn, một số khác trong sáng và thuần nhất hơn Aragon. Nhưng đối với riêng tôi, tác giả Quyển truyện bỏ dở vẫn là nhà văn Pháp thân thiết bậc nhất. Hơn cả một giá trị tự thân, ông đã trở thành một điểm đối chiếu. Khi giở các trang bách khoa toàn thư văn học hoặc các bộ lịch sử văn học Pháp, thường tôi tìm ngay xem trong cuốn sách ấy người ta viết về Aragon như thế nào, dài hay ngắn và lấy đó làm thước đo để xác định những chuẩn mực mà tác giả cuốn sách tra cứu ấy theo đuổi. Trong sinh hoạt văn học, đôi khi tôi cũng hùa theo mọi người để tìm tới những nhà văn được coi là mốt, để khỏi mang tiếng tụt hậu. Nhưng lúc cần suy xét về đường dài, tôi thường chỉ đọc đi đọc lại những người mà tôi cảm thấy gần gũi, họ ở phía trước của tôi và có vẻ như cách tôi không xa, nếu cố gắng tôi có thể theo họ, đó cũng là con đường để tôi tìm ra chính mình.
1997