VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Con đường nghề nghiệp(1)

( Trả lời các câu hỏi của Lê Thị Thúy Hằng, về quan niệm “ thế nào là phê bình” và con đường của tôi trong phê bình văn học )
1/ Vì sao ông quan tâm đến văn chương?
Vì sao đến với văn chương? Thỉnh thoảng chính tôi cũng thử đặt ra cho mình câu hỏi này. Và câu trả lời được tôi tìm thấy trong cuộc đời lúc thơ ấu khá buồn bã của mình.
Mẹ tôi mất sớm, năm tôi mới bốn tuổi.
Cả thời thơ ấu tôi lớn lên trong đơn độc, bố tôi và mẹ kế chỉ lo kiếm ăn, người chị hơn tôi sáu tuổi cũng phải sớm chạy chợ để lo thêm sinh kế cho gia đình.

Những cuốn sách phổ thông mà tôi tìm thấy ở gia đình lúc đó nhầu nát, đầy vết muội đèn, mực đen, giấy xấu. Song tôi vẫn chỉ có chúng làm bè bạn. Sách an ủi tôi. Tôi cảm thấy qua văn chương hiểu thêm cuộc đời chung quanh. Tôi tin mọi chuyện được kể lại trong sách là thực và hay lấy tình tiết trong truyện để vận vào mình.
Nhiều lần tôi khóc sau khi đọc truyện Phạm Công Cúc HoaTống Trân Cúc Hoa. Ở một trong hai truyện này (lâu ngày đọc cũng không nhớ chính xác) có đoạn kể, người mẹ mất sớm, bố lấy dì ghẻ, hai anh em đi tìm mẹ. Người mẹ cảm lòng con, đêm đêm hiện về trò chuyện với các con. Gần sáng mẹ phải trở về cõi âm. Mẹ mới bảo các con quay lưng lại đây mẹ bắt chấy cho. Các con quay lưng lại, thì nhân đó mẹ biến mất.
Sau này đọc Tắt đèn, đến đoạn chị Dậu phải bán cái Tý thường tôi cũng khóc hết nước mắt.
Qua văn chương tôi cảm thấy -- sự đơn độc-- có mặt ở nhiều cuộc đời khác. Nhờ vậy, tôi như giải tỏa được ít nhiều nỗi đau trong khi vẫn là mình, yên tâm với nỗi cô độc không sao dứt bỏ nổi trong mình.
Đọc thêm sách vở, tôi hiểu chỉ với nó, con người ta mới cảm thấy cuộc sống một cách đầy đủ nhất.
Vào những ngày đầu năm Canh Dần 2010, khi được hỏi về Lễ hội thơ, tôi có trả lời tuần báo Pháp luật TP HCM rằng tôi không tin lắm thứ thơ mang ra đọc trước công chúng, tôi chỉ phân biệt được thơ hay hay dở khi một mình một bóng, tiếp xúc với văn bản. Không phải là tôi cố ý muốn làm ra vẻ độc đáo, mà sự thực kinh nghiệm của tôi với văn chương là vậy.
Nhiều lần tôi được các đồng nghiệp và cả các bạn bè làm nghề khác khuyên răn là đừng có đọc sách nhiều, phải đi vào thực tế, chứ sách vở không cho người ta biết cuộc đời là thế nào đâu. Tôi cảm ơn những lời khuyên đó, nhưng trong bụng nghĩ ngược lại và kiên trì theo con đường ngược lại. Là tin ở sách, dùng sách vở để kéo dài kinh nghiệm trong thực tế.
Sau hơn bốn chục năm sống với văn chương nay nghĩ lại tôi thấy những trang sách tôi đọc không phải chỉ là cần thiết cho sự hành nghề của tôi, mà còn giúp cho tôi sống nữa.
Khi viết các bài phiếm luận về các vấn đề văn hóa xã hội, tôi đã vận dụng nhiều hiểu biết mà tôi tiếp nhận được từ các sáng tác văn thơ đã đọc khi viết phê bình.
Càng già tôi càng tin rằng việc tôi quan tâm đến văn chương là một quyết định đúng lúc trẻ. Tôi rất muốn một dịp nào đó sẽ viết một thứ hồi ký theo chủ đề “văn chương trong đời tôi.”
Có lần tôi đã liều mạng … định nghĩa văn học. Đây là một câu in nghiêng trích từ một bài viết về Vũ Trọng Phụng” Văn học là tiếng kêu khắc khoải của con người, trước một thực tế đời sống không bao giờ họ cảm thấy bằng lòng và sự thật là không bao giờ hiểu hết” ( xem Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hóa trong văn học Việt Nam – H. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội 2006, tr 174). Mặc dầu hình như chả ai để ý tới ý tưởng này bao giờ, nhưng tôi vẫn tha thiết với nó. Bởi nó làm chứng cái lý do tôi đến với văn chương mà tôi vừa nói với bạn ở trên.

2/Vì sao ông chọn con đường phê bình văn học?
3/Có khi nào ông thử sáng tác không?
Hồi học cấp III Chu Văn An (1958-61), tôi đã thử viết ca dao cho Sở Văn hóa HN trên những tờ bướm gọi là Tiếng hát quê ta, Tiếng máy. Và ca dao của tôi thường được đăng bên cạnh ca dao của các anh Văn Tuế, Bùi Kim,Võ Văn Trực, Ngô Văn Phú, Trần Nhật Lam … Ngoài ra tôi đã thử làm thơ, thử viết ký và cái mà bọn tôi “tưởng là truyện ngắn”. Đến các thể này thì tôi thất bại.
Do thử làm thơ, tôi làm quen với một số bạn bè, và trước tiên đọc họ. Bài phê bình đầu tiên tôi viết là bài về tập thơ Sức mới. Đó là một tập thơ của các bạn lúc đó còn trẻ như tôi. Tôi đã đọc không chỉ các bài các anh in trong Sức mới mà còn đọc nhiều bài khác các anh đã cho in trên báo. Đọc để học cách làm thơ. Bây giờ tôi chỉ cần nối các ý tưởng ấy lại là hình thành nên bài phê bình nói trên.
Từ một đơn vị quân đội trên Bắc Giang, tôi gửi bài về Văn Nghệ. Bài được in gần một trang trên một số báo ra trong tháng 3-1965.
Mối quan hệ của tôi với giới cầm bút bắt đầu từ đấy. Một đặc điểm trong cách làm nghề mấy năm đầu của tôi là lo đánh bạn với cánh sáng tác trẻ nhiều hơn, trò chuyện về nghề với các bậc đàn anh như Nguyễn Khải Nguyễn Minh Châu nhiều hơn, trong khi chỉ quan hệ với các cây bút phê bình ở các báo …như các đồng nghiệp.
Tôi vẫn chưa quên sáng tác ngay cả khi về Văn Nghệ Quân Đội, dù là chỉ ở dạng đơn sơ là viết ký. Có bài tạm được, nhưng đại đa số … không ra gì. Một người bạn tôi làm giáo viên nhận xét chính ông Nhàn viết phê bình rất tự do, mà viết ký lại gò bó. Tôi thấy đúng và nghĩ tội gì không chọn chỗ mình cảm thấy tự do mà làm. Thế là viết phê bình đều đều.
Như vậy không có gì sai nếu nói lúc đầu tôi viết phê bình vì sáng tác không nên thân. Đó là một điều nhiều bạn bè tôi hồi ấy đều biết cả, tôi có giấu cũng không được.
Tôi chỉ không đồng tình với suy diễn của một số người, họ cho rằng đã không sáng tác được thì làm phê bình cũng vứt đi.
Bên Pháp có trường hợp nhà nghiên cứu gốc Bungary là J.Kritseva, mọi cuốn lịch sử phê bình thế kỷ XX phải nhắc đến tên bà. Có lần tôi đọc tiểu sử thấy người ta nói bà còn là tác giả một cuốn tiểu thuyết mà bà viết lúc đã thành danh và hình như … chẳng ai nhắc nhở bao giờ. Chắc bà viết để hiểu thêm về sự sáng tác tôi nghĩ, và thấy phục một người dám sống như vậy.
Cho đến nay mối quan hệ phê bình sáng tác vẫn rất lủng củng. Cách nghĩ coi trọng sáng tác hơn phê bình đã thành nếp cố hữu ở một số đầu óc. Nhiều người công khai nhắc lại cái câu khái quát hàm hồ “Một nhà văn học ba ngày thành nhà phê bình chứ nhà phê bình học ba năm không thành nhà sáng tác được”. Hoặc độc địa hơn, người ta dẫn lại một câu từ miệng một nhà văn nước ngoài:
-- Khi không viết được văn chương thì người ta đi viết phê bình. Cũng như khi không làm chiến sĩ thì người ta làm mật thám.
Tôi, lúc ấy còn trẻ, nghe mà chết điếng trong lòng. Nhưng chỉ buồn một dạo rồi thôi. Lúc tỉnh táo, tôi tự nhủ: Đó là họ quá ghét phê bình nên nói cho sướng miệng. Maiakovski có viết một câu thơ đại ý, nếu một vì sao đang phát sáng vì nó đang cần cho ai đó.
Cứ cho sáng tác là chiến đấu mà phê bình là tình báo ( cùng nghĩa với “gián diệp”, “mật thám “) đi . Thì có sao đâu? Quân đội nào chả cần những người tình báo có tài! Một tình báo xuất sắc có khi có tác động bằng mấy sư đoàn quân đoàn thiện chiến.
Mặc bao lời bỉ bác, phê bình vẫn tồn tại. Người ta coi thường những người phê bình viết dở như coi thường mọi người cầm bút kém cỏi nói chung. Và việc đó không khiến người ta từ bỏ việc khao khát tìm đọc những nhà phê bình có tài, những nhà phê bình chân chính.
Liên hệ bản thân, tôi nghĩ:
--Nếu không viết phê bình, mình sẽ không hiểu được nghề văn cặn kẽ như hiện nay. Loanh quanh với những quan niệm cũ, thì có sáng tác được mình cũng không ra cái gì.
--Với việc viết phê bình, minh nói được nhiều điều mình muốn nói, chẳng những thế, có những lúc trở nên có ích cho một số bạn đọc—thế là được rồi.
Chung quanh mối quan hệ giữa phê bình với sáng tác cho phép tôi nói thêm một điểm nữa:
Khi muốn nhấn mạnh rằng mình là “ nhà phê bình đích thực”, “nhà phê bình rất có tài” … có những đồng nghiệp của tôi – kể cả khi đã cao tuổi đã thành danh trong nghề -- hay hí hửng khoe: mình được các nhà văn nhà thơ vì nể, họ coi trong mình, cho là mình mới hiểu giới sáng tác.
Tôi thấy khoe thế hơi… ấu trĩ. Gần năm chục năm sống trong nghề, tôi nhận ra rằng đa số các nhà văn cũng có cái tâm lý như người thường, ai khen mình thì quý thì cho là có tài, ai chê thì ghét bỏ. Nghề viết văn ở VN còn ở tình trạng nghiệp dư, mối quan hệ giữa những người làm nghề nhiều khi mang tính cách cánh hẩu và vụ lợi.
Trong hoàn cảnh ấy, sự phổ biến của cái tâm lý nói trên không có gì lạ.
Đúng là được các nhà văn mà mình kính trọng khen, ai không thấy sướng.
Song nên nhớ sự tỉnh táo cần cho nghề viết văn nói chung, càng cần cho nghề phê bình nói riêng. Khi được người sáng tác khen, anh cần tự xét lời khen chê kia là thực bụng, hơn nữa là chính xác, hay chỉ là lối nói lấy lòng nhau. Khi bị chê, cũng cần yên tâm tiếp nhận và tiếp tục suy nghĩ về nghề. Ta viết vì nền văn học, vì bạn đọc nói chung chứ không phải vì riêng một ai. Ta là thế nào, ở trình độ nào, thiên hạ trước sau sẽ biết đánh giá đúng. Ý kiến của mấy nhà sáng tác chỉ là những gợi ý ban đầu, chứ đâu phải tiếng nói cuối cùng.
Tóm lại, một thời gian dài tôi cũng có lối sùng bái vô điều kiện sáng tác miệt thị phê bình. Song càng sống tôi càng thấy không nên nghĩ như vậy. Niềm tự tin có được từ những năm trưởng thành giúp tôi tìm thấy và khai thác tốt hơn phần sức lực mà tôi vốn có.

4/ Được biết ông sống ăn lương từ nghề biên tập ở nhà xuất bản. Ông có hài lòng với công việc này? Những thuận lợi và khó khăn trong quan hệ giữa công việc biên tập và công việc phê bình, từ kinh nghiệm của ông?
Dân viết phê bình thường là thầy giáo ở các trường đại học, hoặc các nhà báo. Số người ăn lương ở nghề xuất bản mà làm phê bình như tôi hơi ít. Nhưng tôi cho là tôi đã chọn đúng nghề.
Tôi hiểu bạn muốn hỏi công việc biên tập giúp gì cho hoạt động của nhà phê bình? Giúp nhiều chứ. Tôi đọc kỹ tác phẩm hơn. Tôi vào trong bếp núc của sự sáng tác. Tôi có dịp trò chuyện với tác giả. Nói chung là tôi hiểu thêm văn học.
Có nhiều kỷ niệm trong cuộc đời làm biên tập, đây tôi chỉ kể hai trường hợp. Một có liên quan đến cuốn Chuyện nghề của Nguyễn Tuân. Năm ấy, khoảng 1984, cụ Nguyễn vay tiền của Nhà xuất bản Tác phẩm mới của tôi quá nhiều. Ông Mãi, phó giám đốc nhà xuất bản hỏi tôi có cách nào in cho Nguyễn một quyển sách để trừ nợ không. Tôi bảo thế thì làm lấy một tập bài Nguyễn Tuân viết về nghề văn. Tự tôi đi tìm tài liệu. Khi nhờ sự giúp đỡ cô Hà thư viện Hội, đã có một bản thảo tàm tạm, tôi mới mang trình Nguyễn Tuân, xem sắp xếp các bài ra sao, đặt tên sách ra sao. Chuyện nghề của Nguyễn Tuân ra đời là thế.
Trường hợp thứ hai, khoảng sau 1990, sau khi đọc một bài báo của Bùi Ngọc Tấn viết về Nguyên Hồng, tôi đã đề nghị anh viết hẳn một cuốn sách về người đã viết nên Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu. Kết quả là có cuốn Một thời để mất. Bạn đọc có thể đọc thêm quá trình trao đổi công việc giữa tôi và anh Tấn qua những lá thư mà tác giả đã công bố như một phụ lục Một thời để mất, in trong cuốn Bùi Ngọc Tấn Viết về bè bạn( nxb Hải Phòng, 2003).
Qua hai trường hợp ấy và một vài trường hợp tương tự, tôi thấy giữa việc làm nghề phê bình mà tôi đã chọn, với nghề nghề làm công ăn lương là nghề biên tập, có sự hỗ trợ bổ sung cho nhau.
Gần đây do quan niệm phê bình gần với tiếp thị nên mới có hiện tượng một người biên tập xong một tập sách lại đứng ra viết giới thiệu tập sách đó trên sách báo. Thời tôi vào nghề, người biên tập phải nhường việc đó cho người khác, để tôn trọng công luận. Tích lũy được gì qua việc biên tập anh sẽ viết sau.
Tôi coi tiếp thị không phải là phê bình văn học.
Càng làm biên tập tôi càng thấy người biên tập đóng vai trò không thể thiếu trong sự ra đời của tác phẩm. Người bạn đường. Người tư vấn. Đôi khi đó gần như là người truyền ban cho người khác sút. Theo chỗ tôi biết ở bên Tầu cũng vậy bên Tây cũng vậy. Chỉ trừ ở ta. Ở ta, các nhà văn chỉ coi người biên tập là một loại nhân viên soát vé. Lao động nghề văn chỉ được hiểu là lao động đơn độc của chính người viết. Không có sự cộng tác. Điều đó làm cho nhiều tác phẩm đáng lẽ có thể hoàn thiện hơn thì dừng lại như chúng ta đã thấy. Nhưng chả ai thấy buồn vì chuyện này cả. Chỉ có bạn đọc là thiệt.

5/ Không khí xã hội có ảnh hưởng nhiều đến tâm thế viết của ông? Rồi cả không khí trong giới cầm bút ?
Có chứ, những diễn biến trong hoàn cảnh ảnh hưởng đến tôi, cũng tương tự như thiên nhiên, khí hậu cuộc sống gia đình, thông tin tiếp nhận được… cũng đã ảnh hưởng đến tôi.
Bệnh của nhiều người viết ở VN là đua nhau chạy theo những nóng lạnh có tính thời sự. Tôi cũng có lúc đã mắc căn bệnh đó, đại khái là không có gì theo đuổi lâu dài, mà chỉ hong hóng để ý xem dư luận đang bàn về cái gì thì cũng ghé gẩm nói vào. Nhưng tôi chóng chán. Tự thấy so với nhiều người trong giới, tôi không cuồng nhiệt bằng.
Vả chăng mỗi tuổi mỗi khác. Thuở mới ba mươi bốn mươi còn thích đi nghe ngóng mọi người làm ăn viết lách ra sao. Từ 2007, sau khi về hưu ở tuổi 65, tôi cố để hạn chế những ảnh hưởng từ không khí chung mà lo quay về sống với bản thân mình là chính. Không khí xã hội lúc này được hiểu là những vấn đề lớn của cả giai đoạn lịch sử lâu dài, chứ không phải những chuyện thời sự “ nhạy cảm” theo cách người ta hay nói.
Một người phê bình tôi quen thấy có tác phẩm nào có vẻ nổi, là lo “ xí chỗ” ở một tờ báo nào đó xin viết, để chứng tỏ là mình nhanh tay nhanh mắt và sớm có mặt. Một thời tôi cũng bị cuốn theo lối làm việc ấy. Sau tôi nghĩ lại, cứ để cho mọi người nói trước đã. Vấn đề là mình có được những ý tưởng mà người khác không có. Một nhà phê bình chân chính phải biết đọc trong cái thời sự những gì thuộc về vĩnh viễn, khi đó thời sự qua đi người ta vẫn tìm tới văn mình.
Trong lý luận về tiểu thuyết của M.Bakhtin có một khái niệm là thời gian lớn, một điều mà Bakhtin đòi hỏi là nhà văn phải có đối thoại với cái thời gian lớn này, có thế mới thu hút được sự quan tâm của lịch sử văn học. Theo tôi, đó cũng là đòi hỏi với các nhà phê bình.

6/ Nhà phê bình nào gợi cho ông nhiều cảm hứng nhất?
Như tôi đã viết ở đâu đó, khoảng mấy năm 1965-70, tôi chỉ ước mình viết được như Lê Đình Kỵ ( Vũ Ngọc Phan và Hoài Thanh thì cao xa quá, không dám mơ). Rồi sau tôi học mỗi người một tí và không nghĩ rằng mình viết giống ai cả, nên cũng chẳng bị chi phối bởi cảm hứng về ai cả.
Đấy là xét trên phạm vi hẹp. Còn nhìn rộng ra suốt cả những gì tôi đọc từ văn học nước ngoài, và xét phê bình theo nghĩa một cách giải thích về văn học, thì người tôi cho đáng mặt một nhà phê bình nhất chính là người tôi vừa kể: M.M. Bakhtin. Trong cuốn Những vấn đề thi pháp Dostoievski ( mà bản tiếng Việt tôi có tham gia dịch một chương) cùng một lúc ông làm được hai việc 1/ gọi rõ thế giới của ông Đốt, cho ta thấy bộ mặt riêng của cuộc đời mà Đốt miêu tả 2/ trình bày được quan niệm của mình ( Bakhtin) về thế giới. Ông Đốt của Bakhtin không thể gọi là chân dung duy nhất của Đốt, nhưng rõ ràng là rất gần với Đốt thật, và đó là một trong vài ba bức chân dung sắc nét, là một trong những cách giải thích có lý nhất về Đốt. Nhưng đọc vào cuốn sách trên, người ta đồng thời lại bị thu hút vào suy nghĩ của Bakhtin và đọc xong người ta cũng bị ám ảnh bởi ông, như đã bị ám ảnh bởi Đốt. Đây là ví dụ rõ rệt nhất của câu châm ngôn “ Hiểu biết tức là sánh ngang” – dịch nôm na là lời tự khẳng định lý do tồn tại của nhà phê bình bên cạnh nhà sáng tác: với sự hiểu biết thấu đáo về anh, tôi có quyền nói rằng đã sánh ngang với anh.

7/ Liệu có thể nói rằng ông có một quan niệm riêng về nghề phê bình? Đâu là chỗ khác của ông với mọi đồng nghiệp khác ? Ông đã đi tới quan niệm này như thế nào? Và đâu là bí quyết thành công của ông trong nghề?
Mấy nhà phê bình hàn lâm bảo đại ý là tôi viết như dân sáng tác thường viết, do đó có vẻ như một con quạ trắng, một thứ mèo hoang trong văn chương. Tôi cũng thấy vậy, nhưng không cho là chuyện đáng chê. Lạc sân cũng được, nửa dơi nửa chuột cũng được, miễn tôi có sản phẩm riêng, giọng điệu riêng.
Tôi không tách lao động của mình khỏi lao động văn học nói chung. Tức không nghĩ sáng tác chỉ thu gọn lại thơ truyện. Phê bình cũng là một thứ sáng tác chứ. Phê bình của tôi có tư tưởng và ngôn ngữ riêng của tôi. Đó chẳng phải là phẩm chất thiết yếu của sáng tác hay sao?
Không chỉ có sở thích khác, mà có vẻ như quan niệm về phê bình của tôi cũng ít nhiều có những phần khác so với các đồng nghiệp.
Một khía cạnh thấy rõ nhất rút ra từ quan niệm đã chi phối tôi có thể tóm tắt như sau: dù viết theo kiểu dân sáng tác vẫn viết hay theo kiểu hàn lâm, giá trị một bài phê bình không chỉ ở chỗ nó nói đúng về một tập thơ hay cuốn truyện, hoặc gọi ra phong cách một tác giả nào đó. Mà nó phải gợi ra những suy nghĩ về toàn bộ nền văn học. Hơn nữa, phê bình cũng là một cách nói về đời sống.
Phê bình không phải là một thứ bậc thang để người ta đi tới những giá trị văn học khác, do đó là một thứ dây leo sống nhờ. Mà tự nó bài phê bình viết hay đã là một giá trị.
Tôi không dám nói là tôi đã đạt được cái chuẩn này. Nhưng tôi hướng tới nó.
Nếu đôi khi người ta có nói tới sự thành công, tôi hiểu đó là vì tôi cũng có được một số người đọc; có những bài viết của tôi viết từ năm mười năm trước, đọc lại người ta vẫn thấy nó có liên quan tới ngày hôm nay.
Sau khi đọc bài viết của tôi về Xuân Diệu ( in trong Cây bút đời người ), một độc giả cao tuổi nói với tôi” Khối quan chức cỡ kha khá sống như kiểu Xuân Diệu mà cậu mô tả”. Những lời khen loại này làm tôi sung sướng vô kể.
Bí quyết của tôi ư? Tôi cho rằng đó là nhờ tôi biết đặt văn học ta nói chung phê bình ta nói riêng trong cái mạch của văn chương nói chung theo cả hai trục là trục dọc lịch sử và trục ngang thờì đại.
Văn học ta cũng đã và đang phát triẻn theo những quy luật chi phối sự phát triển các nền văn học khác. Hiện nay ở ta phê bình chỉ là một thứ phụ tùng tô điểm cho sáng tác, nhưng ở các nền văn học hiện đại, phê bình là một thứ tự ý thức của văn học. Vậy ta phải học cách viết của họ -- xin tạm tóm tắt nhận thức chi phối tôi là vậy.
Lúc bắt đầu về làm báo và coi hoạt động là nghề chính của mình, cũng là lúc tôi để hết sức lực học ngoại ngữ ( dù chỉ để đọc sách ). Ngay khi chưa nắm chắc tiếng Nga tôi đã tìm đọc không chỉ tiểu thuyết thơ mà cả báo chí xô viết và các bài phê bình in trên các tờ Văn học, Thế giới mới, Những vấn đề văn học
Tôi coi việc tìm hiểu văn học nước ngoài là yếu tố sống còn có tác động sâu sắc tới việc nghiên cứu văn học VN của mình.
Kết quả cụ thể là tôi thường loay hoay tìm cách viết một thứ phê bình không phải như ở chung quanh tôi, các đồng nghiệp đang viết. Mà có hơi hướng thứ phê bình tôi đọc được ở nước Nga xô viết hồi ấy. Trong chừng mực nào đó, còn có thể nói ở đây bóng dáng của thứ phê bình ở các nước phương Tây mà các nhà phê bình nghiên cứu Nga giới thiệu cho độc giả nước họ.
Xin nhắc lại là không phải cái gì tôi muốn là đã tự khắc làm được; trên con đường mà tôi xác định phải đi, tôi chỉ bước được một khoảng ngắn; nhưng tôi có thể yên tâm mà nói là đã đi tìm và có vẻ như đã bước được vào con đường đúng.
Vậy thì bài học tôi rút ra cho mình là người làm phê bình nói riêng người làm văn học nói chung không dễ dãi trông chung quanh, không lấy việc bắt chước những bậc đàn anh làm mục đích. Mà phải nhìn rộng ra các nền văn học khác. Trong điều kiện thời tôi trẻ, khi xã hội VN tách mình ra khỏi thế giới, tôi vẫn tìm cách để hội nhập với thế giới. Nay thuận lợi hơn, các bạn trẻ nên khai thác ưu thế này triệt để.


أحدث أقدم