Đêm
30 Tết Tân Hợi (1971), về công tác ở một đơn vị bộ
đội và đón giao thừa giữa rừng, tôi chỉ còn tìm
thấy niềm an ủi ở một bếp lửa. Từ khoảng mười giờ
đêm trở đi, không biết làm gì mà cũng không thể ngủ
nổi, tôi và mấy anh lính Hà Nội nghĩ ra cách giết thời
gian là ngồi đun nước.
Nghĩa là đun đầy một cặp lồng
cho sôi lên sùng sục, rồi đổ đi. Lại một cặp lồng
khác. Cố nhiên chẳng để làm gì, nhưng bù lại, tôi thấy
vui vui. Và có điều lạ là nhiều năm sau, sống những cái
tết bình thường khác bên gia đình, vợ con, tôi vẫn nhớ
Tết năm 1971 ấy như một thời khắc đẹp trong đời mình.
Có
lẽ là trong sự đơn sơ của tình thế,
tôi như được đối mặt với những gì thuộc
về tinh túy của dĩ vãng: vẻ bao la huyền bí
của thiên nhiên. Và một bếp lửa, nó là dấu
hiệu đẹp nhất của sự có mặt của con người
trên mặt đất. "Đưa người ta trở về
sống trọn vẹn trong cái trong trắng tinh khôi của dĩ vãng"
- phải chăng có thể xem đấy là một trong những định
nghĩa đơn giản nhất về Tết mà ngày nay đã bị quên
lãng?
Nông
thôn và Tết
Do
tính chất ước lệ của nó, văn chương cổ
điển Việt Nam không có điều kiện mô tả trực tiếp
những nét đẹp của sinh hoạt dân tộc. Phải đợi đến
thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng của văn hóa phương Tây,
ngòi bút các nhà văn mới hướng vào việc tả thực và
trong văn thơ người ta bắt đầu thấy hiện lên những
bức tranh của đời sống, trong đó có cảnh Tết. Nhưng,
từ rất sớm, đã thấy bộc lộ một xu hướng, ấy là
những cảnh Tết đầm ấm nhất, tươi đẹp nhất, thường
khi là Tết ở nông thôn (như trong thơ Nguyễn Bính, thơ
Đoàn Văn Cừ). Còn Tết thành thị lại mang sắc thái bẽ
bàng, trớ trêu (trong một số truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan, Thạch Lam, hoặc trong tùy bút Một chuyến
đi của Nguyễn Tuân). Tại sao lại có tình trạng đó?
Tôi có suy nghĩ và thấy Tết là một cách sống lại dĩ
vãng. Mà trong đời sống một dân tộc, nông thôn bao giờ
cũng mang rõ dấu vết của dĩ vãng hơn cả. Nói cách khác,
Tết tự trong bản chất của nó, là gắn với nông thôn.
Nó xuất phát từ nông thôn và chỉ hiện ra với đầy đủ
vẻ đẹp trong môi trường nông thôn. Thí dụ như câu chuyện
chung quanh cái bánh chưng. Thời buổi đói kém qua đi, mấy
ai bây giờ nhớ tới bánh chưng với vẻ thèm thuồng tối
thiểu. Chính các cụ xưa cũng đã khái quát: "Dửng
dừng dưng như bánh chưng ngày Tết". Nghĩ lại thì
hóa ra cái thú bánh chưng không phải ở chuyện ăn, mà là
chuyện chuẩn bị. Đãi đỗ, vo gạo, rồi rửa lá. Nhất
là gói thì càng vui. Còn cái thú của việc ngồi canh bánh
chưng thì đã được Nguyễn Bính nhắc tới từ hơn sáu
chục năm trước.
Trời
đen
như thể tối ba mươi
Diễm
trốn nhà
sang để gặp tôi
Hai
chúng tôi ngồi trên
đệm rạ
Lắng
nghe nồi bánh rộn ràng
sôi.
Nên
đón Tết như thế nào?
Trong
trường kỳ lịch sử, với tư cách một lễ
hội đặc biệt, cố nhiên Tết còn được
người xưa giải thích theo những cách khác nhau. Tết
để tưởng nhớ công ơn tổ tiên. Tết để
có dịp gia đình sum họp. Đến ngày nay, dịp đầu
năm này tiếp tục khoác thêm nhiều ý nghĩa mới:
tết, ấy là dịp tổng kết mừng công. Là thời gian nghỉ
ngơi trước khi bước vào một chu kỳ công việc mới v.v...
Thế
nhưng, căn cứ vào cách tổ chức Tết từ cổ
các cụ truyền lại và lắng nghe tâm trí mình
mỗi dịp Tết đến, thì phải nói ở đây
nhu cầu trở về với quá khứ vẫn là cái cảm giác
bao trùm. Và nét tâm lý ấy di truyền từ thế hệ nọ sang
thế hệ kia, đến mức chỉ mơ hồ cảm thấy những dấu
hiệu của nó, lòng dạ chúng ta đã xốn xang.
Khốn
nỗi, xã hội ngày mỗi trở nên hiện đại,
có nghĩa là càng ngày, niềm khao khát trở lại
ngày xưa càng khó thực hiện. Trước 1945, ở Hà Nội, nhiều
gia đình có cái lệ là Tết đến đóng cửa, giao cho bọn
thằng nhỏ trông nhà, để mọi người cùng kéo về quê
ăn Tết. Ngày nay, những chuyến đi thú vị ấy trở nên
quá diệu vợi, không mấy ai dám tính chuyện rắc rối ấy
nữa. Và để bù vào cái khoảng trống vắng vừa mở ra,
một số người xoay ra tổ chức Tết thật linh đình. Tết
trở thành một thời điểm thuận tiện, tiến hành các
thủ tục ngoại giao, biếu sếp cái này, thết đãi bạn
cũ món kia; Tết đóng vai trò một sàn diễn lý tưởng để
người ta khoe giàu, khoe của. Nói chung, vừa là tết trưng
diện, vừa là tết hưởng thụ.
Nói
những chuyện này để thấy hóa ra có được một
cái Tết như ta vẫn thầm mong đợi, quả là
chuyện khó, trong mỗi đời người họa chăng chỉ
có một hai cái Tết mà mãi về sau ta còn thấy nhớ.
Để những cái Tết ấy đến sớm và còn tiếp tục đến,
ta hãy tự chuẩn bị bằng cách bảo nhỏ với nhau, một
là từ bỏ hẳn ý tưởng coi Tết là một dịp đua đả
bon chen, khoe khoang tị nạnh và hai là trong khi thực hiện
những tập tục xưa với lòng thành kính, hãy cố gắng
mang vào đấy những suy nghĩ riêng, tức không dừng lại
ở những cách giải thích sẵn có mà tự lắng nghe để
tìm ra ở Tết những ý vị mới.
Chắc
chắn nhờ thế, dịp Tết sẽ bớt nhàm chán, và
ra giêng người ta sẽ không phải nghĩ về nó với một
sự than tiếc ngẩn ngơ rằng vừa trải qua một chuỗi ngày
dông dài vô bổ.
Đã
in Nhân nào quả ấy, 2003