Về nhà văn Trần Dần trên blog này ngày 19/11/ 2023 tôi từng đưa lại bài "Thủ lĩnh trong bóng tối"
của Phạm Thị Hoài, https://vuongtrinhan.blogspot.com/2023/11/thu-linh-trong-bong-toi-bai-cua-pham.html
bài này vốn lấy từ nguồn http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=900&rb=0102 --
Trong việc đánh giá lại văn học nền văn học phát xuất từ Việt Bắc kháng chiến rồi phát triển lên ở Hà Nội đến 4-1975, tôi vẫn thấy trước sau rất nên tham khảo cái nhìn của các tác giả miền Nam (cả các nhà văn và giới nghiên cứu), bao gồm cả sự biến chuyển của cái nhìn này trong thời gian.
Lấy một ví dụ như hiện tượng Nhân Văn Giai Phẩm, các nhà văn Hà Nội này đã được các đồng nghiệp bên kia chiến tuyến nhìn nhận như thế nào.
Vối mong mỏi ấy, tôi giới thiệu dưới đây một bài viết thuộc loại này bài của nhà văn Đặng Trần Huân nhân quyền Trần Dần nhớ và ghi in năm 2001
http://www.daichung.com/81/09_lan_gio_truoc_den.shtm
DI CẢO CỦA TRẦN DẦN
Một nhà văn nổi tiếng khi chết đi thường còn những tác phẩm trong dạng bản thảo chưa kịp in mà ta gọi là di cảo. Cũng có những di cảo chưa phải là tác phẩm mà chỉ là những ghi chép được in thành sách. Như trường hợp Nhật Ký của Anne Frank hay Notes (tạp ghi) của nhà văn Pháp Albert Camus.
Ở hải ngoại, gần đây thân nhân nhà văn Trần Dần giao cho nhà TD Mémoire ở Ba Lê in những ghi chép lung tung của ông sau khi ông chết với cái tên sách là Ghi 1954 - 1960. Đó là một phần thời gian mà Trần Dần bị trừng trị vì liên quan tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm.
Vì là những ghi chép không dấu diếm và cũng không ngờ có ngày được in nguyên văn nên Trần Dần kể thực về những điểm xấu liên quan tới những nhà văn bạn hữu của ông. Như Thanh Châu là một người bất mãn, già tuổi nhưng không già tài: Anh ta luôn luôn thèm thuồng ti tiện, thèm ăn, thèm uống, thèm danh vị. Một tuần lễ mà anh không được ai mời đi ăn, có tí thịt vào mồm, thì tuần ấy vợ con mất nhờ! (tr. 249). Nhà thơ Quang Dũng là: “tiếng than của sự tàn lụi, giọt lệ của quá khứ, tiếng khóc của những chế độ đã qua”(251). Hoàng Cầm, người mà có thời cộng sản đã ca tụng là nhà thơ đuổi giặc thì được Trần Dần mô tả là một người hèn nhát, khi đi học tập về vụ Nhân Văn Giai Phẩm đã tố bạn bè để lấy lòng đảng, tố Văn Cao và khi Văn Cao tới nhà hỏi lại thì Hoàng Cầm lạy lục tạ tội (264, 265). Tháng 5. 1958 Hoàng Cầm đưa vợ chính thất là cô Xuyến ra tòa xin ly dị nhưng tòa không chấp thuận nên “H Cầm ra về như một cái tã (273). Nhạc sĩ Tử Phác tự dùng thuốc để cung cấp khoái lạc, được Văn Cao tặng cho biệt danh là anh Ba Vòi.(327)
Còn chính Trần Dần thì nói gì về mình trong những dòng ghi riêng tư đối với những ngày tù cải tạo?
Bùi Ngọc Tấn trong Chuyện Kể Năm 2000 chỉ mới đi tù có gần năm năm mà khi ra tù đã bị ám ảnh khủng khiếp, đi đâu cũng tưởng nhà tù, gặp ai cũng tưởng bạn tù. Trần Dần đi lao động cải tạo ở nông trường Chí Linh chưa tới nửa năm. Mặc dầu đường lối của đảng của ông tuyên truyền lao động là vinh quang mà mới phải vào vườn mía cuốc hai bên gốc mía mà Trần Dần đã thấy đau khổ và kể:
Vào bãi mía, như vào một chiến trường đặc biệt, có muôn lưỡi gươm cài tứ tung (tr 347)
Lại mía. Bắt rệp xong, đi lột lá.
Cái rẻ giết rệp, mủ dầy cộp, tanh ngheo ngheo. . . Tôi có cảm giác, đây là một bác sĩ, nặn mủ cho hàng nghìn người bị lở nhọt, mà chỉ có mỗi một cái giẻ!. . . Cứ hết mụn người này sang người khác. Kinh tởm. (349)
. . . . .
Lá mía. Công tác này kinh quá. Cứ một ngày bóc lá mía, là vài ngày xót và nhức tay . . .(349)
Hai tác giả này có biết có những người chiến sĩ quốc gia sau 30. 4. 75 bị cộng sản bắt tù tới 17 năm giòng giã, ăn không đủ no, ngủ chung với rệp, lao động khổ sai trên rừng đầy vắt, ruộng lúc nhúc đỉa, trong những ao phân lúc nhúc dòi như thế nào không ?
Bùi Ngọc Tấn sau khi ra tù vẫn không làm gì cho cộng sản, khác với Trần Dần dù đã từng làm những bài thơ tố cộng nhưng chỉ mới nếm thử ít mùi lao động đã sẵn sàng đầu hàng đảng ngay.
Để lấy lòng đảng cộng sản, Trần Dần không coi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm là một vụ đàn áp mà chỉ là việc đấu tranh văn nghệ (262) và ca tụng chuyện đàn áp đó. Miền Nam gọi vụ đó là đàn áp thì Trần Dần bào chữa:
Ngược lại, ở Hà Nội nên dùng chữ cứu vớt thì đúng hơn. Bàn tay khoan dung của Đảng đã kéo những kẻ lạc đường ra khỏi cái tư tưởng độc địa của chủ nghĩa xét lại! Sao lại vu cho là khủng bố? (264).
Ngoài những dòng nhật ký ngắn cho biết diễn tiến và suy nghĩ của Trần Dần về vụ Nhân Văn Giai Phẩm và về những đồng nghiệp văn chương của ông, là những tài liệu không còn bí mật gì mấy mà chúng ta đã biết như bài chê thơ văn Tố Hữu, thơ Nhất Định Thắng, Hãy Đi Mãi, kịch thơ Cổng Tỉnh . . . và phần phụ lục gồm những văn kiện chính thức về vụ Nhân Văn Giai Phẩm , những bài viết về Trần Dần và tang lễ ông.
Phần nhật ký của Trần Dần trong cuốn Ghi 1954-1960 do nhà văn Phạm Thị Hoài chép lại từ nhật ký viết tay của ông đúng theo nguyên văn lối viết của tác giả mà chỉ sửa lại chính tả cho thống nhất. Cuốn sách mang tên Ghi 1954 - 1960 nhưng trong thủ bút ở trang 366 , Trần Dần viết là Ghi Vặt có lẽ đúng hơn vì có nhiều ngày tác giả chỉ ghi có hai, ba dòng, thậm chí có lúc chỉ có bốn hay năm chữ (134, 56, 108).
Phần biên niên Trần Dần: cuộc đời, tác phẩm, thời đại và những chú thích hẳn phải do Phạm Thị Hoài trách nhiệm. Là một nhà văn trưởng thành dưới chế độ cộng sản, bị bưng bít khi sống dưới chế độ đó nhiều năm, chỉ vượt thoát sang quốc gia tự do sau 1975 thôi nên bà còn mắc những sai lầm khi nhận xét về Việt Nam Cộng Hòa là điều dễ hiểu. Chẳng hạn bà vẫn tin vào sự vu khống của Việt cộng khi nói rằng người quốc gia đầu độc chết trên một ngàn tù cộng ở Phú Lợi (Bình Dương) năm 1958 (369) hay đảo lộn diễn tiến biên niên khi để ngày chết của Nhất Linh sau ngày binh biến 1. 11. 1963 (23) v . v . . .
Tuy nhiên, nói tổng quát, cuốn Ghi 1954-1960 là một cuốn sách cho ta những tài liệu bổ ích để hiểu thêm về những năm đầu khi cộng sản cai trị miền Bắc Việt Nam sau hiệp định Geneva 1954, với những ghi chép thật lòng của một nhà văn nay đã quá cố.
· Ghi 1954 - 1960 dày 470 trang, giá 18 mỹ kim. Nxb Văn Nghệ, Cali tổng phát hành.
---------------------------------
Còn đây là một bài viết tổng hợp về Trần Dần của Hoàng Hải Thủy:
https://hoanghaithuy.wordpress.com/2011/09/06/tran-dan-nobel/
TRẦN DẦN NOBEL
Bài đăng trên WEB, phát đi từ Hà Nội:
Trong buổi tọa đàm về cuốn tiểu thuyết “Những ngã tư và
những ngọn đèn” của Trần Dần tổ chức ngày 16 tháng 6 năm 2011 tại
Trung tâm Văn hóa Pháp ở Hà Nội, nhà thơ, dịch giả Dương Tường đã tâm sự:
“Ở Việt Nam, nếu có một người xứng đáng được nhận giải Nobel thì
người đó là Trần Dần.
“Trần Dần là một người khổng lồ, không dưới 30 tập thơ, ba tiểu
thuyết, không kể những bản thảo bị mối mọt hay thất lạc … Còn phải nhiều năm
nữa người ta mới đánh giá được kho tàng văn học do Trần Dần để lại”.
Dương Tường từng khẳng định Trần Dần là nhà cách tân thơ số một
của Việt Nam.
Ông giải thich:
“Suốt một thời gian dài, thơ Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Thơ Mới. Người đầu tiên tạo nên một vết cắt, đưa thơ Việt Nam ra khỏi quỹ đạo đó là nhà thơ Nguyễn Ðình Thi. Nhưng Nguyễn Ðình Thi không đi hết con đường của mình. Còn Trần Dần, từ những ảnh hưởng của Maiakovski, ông chuyển sang viết Jờ Joạcx, Mùa sạch… với những cuộc tìm kiếm không ngừng đến cái mới. Thơ Trần Dần đầy chuyển động, không bao giờ lặp lại chính mình, nhưng vẫn giữ nguyên cái cốt cách Trần Dần”.
Trần Dần từng kêu gọi “Phải chôn Thơ Mới” …”phải viết khác đi, phải cách tân, phải quên những thành tựu của tiền chiến để sáng tạo nên những thành tựu mới, phải cướp được độc giả của tiền chiến”…
“Tệ” hơn, ông còn đòi “chôn” cả Nguyễn Du:
“Với tôi, Du (Nguyễn Du), Hương (Hồ Xuân Hương), Khiêm (Nguyễn
Bỉnh Khiêm), Quát (Cao Bá Quát) hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưng
học trò phải “chôn” thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ.
Con chữ nó làm nghĩa.
“Mai sau dù có bao giờ” là con chữ “Chữ tài liền với chữ tai một
vần” là đặt nghĩa”.
Bởi vì, ông tuyên bố:
“Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển” (Sổ bụi 1979).
Ông đòi hỏi nhà văn phải là:
“Kẻ viết đạp đổ chân trời? Xổng xích các chân mây?” (Sổ bụi –
1985).
--
Bộ sách Trần Dần ghi 1954-1960 gồm ba quyển: quyển một là những suy nghĩ về sáng tạo, quyển hai chụp lại thời kỳ đấu tố với những hình ảnh khủng khiếp kinh hoàng, quyển ba viết về cuộc sống con người trong những năm bị cầm tù.
Trong quyển Một, có những dòng sau:
– Người Sáng tạo là đại biểu cho Tương lai. Nên hắn mâu thuẫn
rất mạnh với Hiện tại.
– Người Sáng tạo chỉ làm chủ được ở Tương lai. Còn ở Hiện tại,
hắn phải chịu như là thua, nhường cho những kẻ tầm thường khác làm chủ.
– Nếu có chịu được búa rìu của thành kiến mới có thể làm người
sáng tạo được. Phải có dạ lim trí sắt.
– Phải có gan đứng lên trên dư luận, chửi mắng, mưa bão. Phải
biết đạp mưa xéo gió. Phải phá vỡ cái luân-lý-hiện-hành, những nguyên tắc tục
lệ hiện nay đang làm chủ. Ðó là bỏ cái ba lô của hiện tại, mới có thể xốc tới
tương lai.
– Số phận người sáng tạo bao giờ cũng phải chịu hiểu lầm, chịu
những sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng tạo là kẻ thù không đợi
trời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết ngay, nó nhiều kế độc, hại
ngầm và hại ra mặt.
Ðiều kiện tiên quyết để sáng tạo: Tự do
(Ngưng Lời Dương Tường kể về Trần Dần)
o O o
CTHÐ (Công tử Hà Đông):
TRẦN DẦN.GHI được xuất bản ở Paris năm 2001, sau khi Trần Dần qua đời ở Hà Nội. Ở Kỳ Hoa Ðất Trích, tôi đọc GHI, nhớ lại chuyện xưa tôi thấy đau lòng.
Ðá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, nước còn trau mặt với tang thương.
Trong GHI, ngoài việc lên tiếng đầu hàng, hối lỗi, nhận tội, tự chửi rủa mình và mạt sát các bạn văn nghệ sĩ cùng nhóm, hết lời ca tụng Ðảng, Trần Dần viết nhiều câu khinh bỉ “bọn miền Nam“, tức những người Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa, những người đã lên tiếng bảo vệ những văn nghệ sĩ Hà Nội trong nhóm gọi là Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi sẽ kể lại những lời vô ơn, đểu giả, ngu ngốc ấy đúng như lời Trần Dần ghi trong GHI.
Tôi không thấy bực bội khi đọc trong GHI những lời Trần Dần viết về Quốc Gia VNCH của tôi, tôi chỉ thấy thất vọng, chán chường, buồn nản, tôi thương hại những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm — NVGP — nhất là ba ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt, ba người từng được coi là “Những Kiện Tướng Nhân Văn Giai Phẩm.”
Tôi thương hại họ và tôi thương hại tôi: trong nhiều năm tôi tưởng nhóm NVGP — rõ hơn là ba ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt — là những người đàng hoàng, tư cách, can đảm — những “ Kẻ sĩ Bắc Hà” — những kẻ sĩ dám công khai chống lại Ðảng Cộng Sản, dám lý luận đả kích chính sách lãnh đạo văn nghệ của Ðảng, dám chấp nhận những hậu quả tai hại, nguy hiểm của việc họ làm!
GHI cho tôi thấy những văn nghệ sĩ NVGP Nhân Văn Giai Phẩm mà tôi cảm phục trong một thời gian dài đến 40 năm đã đầu hàng Ðảng CS, đúng ra là đầu hàng Tố Hữu.
Không phải là tất cả, năm
xưa ấy — những năm 1957, 1958, 1959, 1960 ở Hà Nội — có những văn nghệ sĩ
bị đàn áp, bị tù đày, nhưng không đầu hàng Ðảng, như Phan Khôi, Trương Tửu, Hữu
Loan, Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Trần Đức Thảo, nhưng ba người nổi tiếng nhất
trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm là Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đã quì gối, rập
đầu, uốn lưỡi nhận tội trước cái gọi là Ðảng, trước bọn được gọi hết sức mơ hồ,
mờ ám là “lãnh đạo“, rõ hơn là trước Tố Hữu.
Năm nay, 2008, tác phẩm TRẦN DẦN. THƠ được xuất bản ở trong nước — Nhà Xuất Bản Ðà Nẵng — được đưa sang Hoa Kỳ bán với giá 20 Mỹ kim ở Cali, tôi viết bài “Ðọc TRẦN DẦN. THƠ.”
Tôi trích đăng ở đây vài đoạn trong bài tôi viết năm 2001 về quyển GHI của Trần Dần.
Ðây là lời Trần Dần:
GHI.
Trần Dần. Trg 226. Trích:
…Từ đầu năm (và cả trước nữa) tôi đã nhiều lần nói với những
LÐạt, ÐđHưng, cả TDuy nữa, về những khuyết điểm, về những cái tội của NVGP, và
của bản thân tôi.
Tôi đã đến với đồng chí THữu, nói như tuyên bố về việc học chính
sách với thực tế. Thế tại sao đồng chí THữu là người quản lý việc học của Ðảng,
lại không mở cửa cho một người đã đến thành tâm gõ cửa?
Ôi chao!
La porte m’est-elle fermée à jamais?
GHI. Trg 240, 241. Trích:
Tôi là cái gì?
Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổn lốn phản động của những tư
tưởng tư sản, địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám danh to đến bệnh “vĩ đại
cuồng”, vô chính phủ đến phá phách mọi trật tự, thoát ly đến rơi vào sinh hoạt
sa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật, tượng trưng, lập
thể, siêu thực… và vào triết học ru ngủ tối phản động của Bergson.
Trong Kháng Chiến, con người phản động đó bị trấn áp, hoàn cảnh
chiến tranh và chân lý vô sản đè cổ nó xuống, nhưng việc nạo rửa mới chỉ được
một phần nào.
Trở về hòa bình, nhân cơ hội cách mạng gặp khó khăn khắp thế
giới và trong nước, lại gặp hoàn cảnh một thành phố “Mỹ hóa” như Hà Nội, tức
thì con người phản động cũ của tôi nó lộn lại. Nó không hiện nguyên hình như
cũ, mà khoác áo mới, những “chống công thức”, “đi tìm cái mới”, thực chất đó
chỉ là cái vỏ che đậy cho cái ruột thối của chủ nghĩa xét lại và tư tưởng
trotskiste.
Con người phản cách mạng như thế phát triển với tốc độ “tử vì
đạo”, nó phá phách khi hung hãn, khi tinh vi mọi cản trở, tức là mọi nguyên tắc
và lý luận cách mạng, nó húc đầu bướng bỉnh và tàn nhẫn vào quy luật phát triển
khách quan của lịch sử. Nó đấu tranh ở bộ đội, ra Giai Phẩm Mùa Xuân, làm thơ
phá hoại, đứng cùng hàng ngũ bọn NVGP, bắn lại cách mạng, bắn lại Ðảng, trong khi
Ðảng vẫn dang lớn hai cánh tay kêu gọi nó lộn về, ngực Ðảng hở, vô tình, bị
viên đạn nhẫn tâm nó bắn đến bị thương.
Không thể đếm hết được những viên đạn ròng rã trong ba năm qua
tôi đã bắn vào Ðảng, khi thẳng mặt, khi bắn sau lưng, lợi dụng tình thương của
Ðảng mà phản bội. Cứ thế, đối Ðảng, đối nhân dân, đối bạn bè, đối gia đình, đối
văn học, tôi đã gây biết bao tình tội, mà suốt một đời còn lại, làm việc và ăn
năn hết lòng, cũng khó mà xóa đi cho hết.
Tôi đã tự lừa dối là người có óc suy nghĩ độc lập. Song sự thực
chứng tỏ tôi chỉ là một con rối mà những đường dây tư tưởng thù nghịch nó đã
giật cho múa may tùy thích.
Tôi đã tự lừa dối tôi là một martyr của Ðảng quan liêu, song sự
thực chứng tỏ đối Ðảng, đối nhân dân tôi là một kẻ tội đồ mà dân ta, Ðảng ta
còn chưa trừng trị.
Tôi đã tự lừa dối tôi là tôi đi một còn đường cao quý, con đường
chịu tội cho loài người (chemin de calvaire) Song sự thực chứng tỏ con đường
tôi đi chỉ là con đường phản bội, con đường phá hoại, nhơ bẩn và tàn nhẫn.
Tôi đã tự lừa dối là tôi tử vì đạo vì mục đích đi tìm cái mới
cho xã hội, cho văn học, cho con người. Song sự thực chứng tỏ tôi đã là đứa tay
sai muốn chết cho bọn tư sản phản động, cho chủ nghĩa xét lại, cho tư tưởng
trotskiste, và cho bọn đế quốc chúng đứng trên cao hết, chăng ra một bức mạng
nhện những tư tưởng hiểm nghèo và độc địa.
o O o
Ngày 17-5-1958, Trần Dần viết về Quốc Gia VNCH.
GHI,
trang 262. Trích:
Miền Nam cắn lại trả thù cái đòn “công hàm” 7/3 của ta, bằng
nhiều cách:
– ra tuyên cáo chĩa lại mũi nhọn vào LXô và Ðảng
– phản tuyên truyền về việc đấu tranh Nhân Văn Giai Phẩm.
Trần Chánh Thành bộ trưởng bộ TTX Thanh Niên của Diệm, đầu sỏ
báo Dân Chúng,-- hắn làm một chiến dịch xuyên tạc việc đấu tranh văn nghệ, tung
tin 17 văn nghệ sĩ “dũng cảm” bị “Việt Cộng” bắt, in lại Nhân Văn Giai Phẩm,
khuyên người ta nên đọc đó mà xem, “khỏi còn có ảo tưởng gì về sự tự do của
Việt Cộng”!
Tóm lại, luận điệu chúng rất là Mỹ, nghĩa là vu cáo đến cynique,
lại bịa đặt đến ngu si, gian ngoan đến lộ liễu.
Tôi bị cái nhục chúng nhắc đến trong số văn nghệ sĩ “dũng cảm”
kia; tất cả số văn nghệ sĩ đó đều đã thấy rõ tội lỗi của mình trong cuộc đấu
tranh tư tưởng vừa qua. Tất nhiên mọi cuộc đấu tranh tư tưởng đều có cái gay go
cần thiết của nó, nhưng đây là cái gay go của sự cứu vớt, cái gay go của tình
yêu của Ðảng, phải kiên quyết cứu số văn nghệ sĩ đáng giận kia ra khỏi cái cũi
của chủ nghĩa xét lại.
Ðâu là chuyện bắt bớ, cầm
tù? Có chuyện ấy, nhưng lại ở Sàigòn, hàng chục văn nghệ sĩ bị đưa ra tòa, chỉ
vì tội tự do ngôn luận chính đáng, họ đã nói tới vấn đề thống nhất, có vậy
thôi! Ở Hà Nội này, người ta lại khuyến khích việc đòi thống nhất, tha hồ thả
sức mà nói! Ở đâu, có tự do yêu nước, tự do bàn đến số mệnh của Tổ Quốc, Sài
Gòn hay Hà Nội? Ở đâu, những văn nghệ sĩ chỉ vì thi hành quyền công dân của
mình mà lại bị tù hàng loạt?
Sự thực, ở Hà Nội, ta có bắt 3 tên NhÐang, MÐức, ThAn. Nhưng sao
lại gọi họ là văn nghệ sĩ? NhÐang là một nhạc sĩ chăng? Hay một thi sĩ, một họa
sĩ? Tuyệt nhiên không phải, cả đến gọi là phê bình hay nghiên cứu văn học cũng
không phải.
NhÐang chỉ là một thủ lĩnh của chủ nghĩa xét lại, nhè những sơ
hở trong văn nghệ nhẩy vào mà phá. MÐức là một tên phá hoại làm nghề xuất bản,
hắn vừa có cái căm thù chế độ miền Bắc, vừa có cái đầu óc buôn tên người, coi
văn nghệ sĩ là những món hàng, nhìn văn chương thành ra những tệp giấy bạc lời
lãi, đánh giá sự hay dở của tác phẩm duy nhất trên tiêu chuẩn bán chạy hay
không, quan điểm “best seller” trong văn nghệ!
Còn Thụy An, đó quả là một mụ có viết lách tí tỉnh. Song mụ bị
bắt không phải vì tội “cầm bút”, mà là vì tội làm gián điệp.
Vậy thì, ai là văn nghệ sĩ bị bắt ở Hà Nội?
Ðâu là chuyện khủng bố? Nếu nói khủng bố thì ở miền Bắc này
người ta không quen nói chuyện với văn nghệ sĩ bằng quả đấm hay lưỡi gươm luật
pháp! Có cần nhắc lại không? Năm ngoái Tổng Thống đã nhờ đến du côn đem đá đến
nói chuyện với báo Tiến Thủ như thế nào? Năm nay, mấy chục nhà báo ra trước
vành móng ngựa của Tòa “bất công lý” Sài gòn?
Ngược lại, ở Hà Nội, nên dùng chữ cứu vớt thì đúng hơn. Bàn tay
khoan dung của Ðảng đã kéo những kẻ lạc đường ra khỏi cái tư tưởng độc địa của
chủ nghĩa xét lại! Sao lại gọi là khủng bố?
Un grand mensonge cousu de fil blanc!
GHI.
Trg 301. Trích:
Quán đưa tôi xem một bản tin miền Nam. Ðâu như do một anh bạn
nào bên Văn Hóa cho mượn.
Bản tin nói xấu tình hình văn học miền Bắc. Luận điệu mốc rồi,
vẫn chỉ vu là: miền Bắc thiếu tự do! Tôi bị cité, cùng với HCầm, Phan Khôi,
Thụy An (!) Ngồi với cái cỗ ấy mới hôi chứ!
o O o
Tôi – CTHÐ – mời quí vị xét tư cách con người Trần Dần qua
những lời anh viết trong Ghi — như những lời được trích trên đây — đáng kể nhất
là việc anh làm với văn nghệ sĩ Phùng Cung năm xưa ở Hà Nội, như kể dưới đây:
Phùng Hà Phủ, người con trai của Nhà Văn Phùng Cung, kể trong
lời giới thiệu tác phẩm “PHÙNG CUNG. Truyện và Thơ.” Nhà Văn Nghệ
xuất bản ở Hoa Kỳ năm 2003, sau ngày Nhà Văn Phùng Cung qua đời.
Phùng Hà Phủ. “PHÙNG CUNG. Truyện và Thơ”
Nhớ lại theo lời bố tôi kể “khi xảy ra chuyện”, buổi sáng hôm đó
bố tôi được triệu tập tới cơ quan để họp. Ðến nơi thấy mọi người xung quanh đều
có ý lảng tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả những
bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt.
Ngay sau đó bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực
chất gần như một buổi đấu tố thời “cải cách” của Liên Hiệp các Hội Văn Học Nghệ
Thuật (gồm cả đại diện bên Văn Nghệ Quân Ðội).
Chủ trì cuộc đấu tố là
các ông Võ Hồng Cương, Nguyễn Ðình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh… Cảm tưởng đau
xót và ngỡ ngàng nhất của bố tôi là những ông bạn thường ngày chơi thân với bố
tôi đều tham gia vào cuộc “đấu tố”.
Ngày hôm đó, ông Trần Dần là người đứng lên mở đầu cuộc “tố” để
tiếp đó hai ông Lê Ðạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị “tố”
là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình, lôi kéo người khác
cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác – Tất cả
nội dung đều tập trung vào việc đả kích lãnh tụ và Ðảng Cộng sản như: Dạ ký,
Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép Nghế… Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia
làm báo Nhân Văn nhưng theo mẹ tôi thì còn nhiều lý do khác nữa.
( .. .. .. )
Từ ngày ra tù, bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan
hệ với ai ngay cả với các bạn văn quen biết cũ. Nhiều người trực tiếp “tố” bố
tôi ngày xưa thấy hối hận về việc làm của họ nên họ tìm đến xin lỗi bố tôi.
Trong dịp bố tôi và bác Phùng Quán đứng ra tổ chức Lễ Mừng Sống
Dai cho ông Nguyễn Hữu Ðang — (Ông Ðang là cán bộ văn nghệ, ông bị bắt tù 18
năm. Lúc này ông đã 81 tuổi.) — Các ông văn nghệ đến dự Lễ Mừng rất đông, ông
Lê Ðạt cũng đến, ông đứng bên bố tôi và nói: “Cung ơi, dù có thế nào tao vẫn là
bạn của mày, tao có lỗi với mày. Có gì, mày cứ gọi tao ra mà mắng.” Ông Hoàng
Cầm cũng đến gặp bố tôi, ngỏ ý muốn nối lại tình thân với bố tôi như xưa.
o O o
CTHÐ : Qua lời kể của Phùng Hà Phủ, tôi thấy bộ mặt hèn,
đểu của ba “Kiện tướng Nhân Văn Giai Phẩm.” Tôi muốn viết thêm “không biết
nhục” nhưng tôi không viết, vì tôi thấy hai tiếng “hèn, đểu” là đã đủ để gọi ba
người đó. Những người hèn đểu thường không biết nhục.
Người ta có thể hèn mà không đểu, có thể đểu mà không hèn, ba
“Kiện tướng NVGP” Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm vừa hèn, vừa đểu. Người thường có
thể Hèn và Ðểu, nhưng Kẻ Sĩ thì không thể.
Nếu không có Phùng Hà Phủ kể chuyện, gần như không có người Việt
nào biết về « Phiên Tòa Ô Nhục NVGP » năm xưa do Ba Kiện Tướng
NVGP Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm muối mặt kể tội Văn sĩ Phùng Cung. Trong bao
nhiêu năm, ba Kiện Tướng không ông nào dám nhắc đến Phiên Toà này. Bao nhiêu
người phỏng vấn ba Kiện Tướng cũng không ai hỏi ba ông về phiên toà. Tôi chắc
vì Phiên Toà này, ba ông Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm không ông nào dám viết Hồi
Ký về Nhân Văn Giai Phẩm.
Qua mấy chuyện tôi kể trên đây, xin quí vị định luận về tư cách,
về con người của Trần Dần.
Nay mời quí vị xét về tài năng của Trần Dần :
Năm 1956 Trần Dần làm bài thơ “Nhất định thắng” bắt
chước kiểu thơ lập dị — cà chớn của Thi sĩ Nga Mayakosky. Ý thơ không có gì lạ,
nó lạ ở cách trình bầy lời thơ trên giấy khấp khểnh theo kiểu bậc thang, như :
…..Tôi bước ra
……….không thấy phố
……………không thấy nhà
Thơ kiểu này là “Thơ xuống thang”. Những văn nghệ sĩ Bắc
Cộng Xã Hội Chủ Nghĩa chuyên ca tụng Liên Xô Vĩ Ðại và bắt chước các đàn anh
Nga, Tầu, nhưng chỉ có một mình Trần Dần là bắt chước kiểu Thơ Khấp
Khểnh của Mayakosky.
Ðây là Thơ Trần Dần “sáng tác” sau năm 1960:
jờ joạcx.
Trích:
Chính tả như một phương tiện nghệ thuật: Talawas xin giới thiệu
một trích đoạn: “jờ joạcx“, một trong những tác phẩm then chốt của sự nghiệp
thơ Trần Dần, di
cảo, chưa xuất bản.
jờ joạcx
thơ-tiểu thuyết một bè đệm
joạc jờ jêrô… vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng tròn.
tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹojoạc jờ nào?
sao cứ thun thút những sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss? mà tôi vẫn
bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc
vườn jịch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng.
tôi biết jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc người đi.
hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày tôi đi
song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông
tôi gặp một con nữ vận động viên ướt jượt toàn thân
chạy joạch vòng mưa jòng jòng
1 – 9 – 6 – 3 min mét nữ.
jờ jạchx nở jòn jọtx
chính ja tôi thíc cái yếm
nín cái nịt thịt của các kilômét đùi joạcx.
Tôi gương trong jập mùng đùi sẹo nữ.
tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các
sẹo bàn ghế tủ nam nữ đồ đạcx.
o O o
Mời quí vị đọc một lời tán tụng Nhà Thơ Lớn Xã Hội Chủ Nghĩa
Trần Dần Jờ Jọaxc.
Nhà văn Phạm thị Hoài viết:
“Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham
muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt
qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài
mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại
làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Từ 1958 đến nay
Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức
với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại
ồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như
Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới.
“Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc
kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểu
tôi phải có một văn cách.”
Ngưng trích Lời Bà Phạm Thị Hoài
Chẳng đặng đừng, tôi — CTHÐ — phải viết đôi dòng:
“Bà văn sĩ nhiều lời quá đi, nhiều lời mà rỗng tuyếch. “..khác
đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ..” “Cái cũ” với “cái đã
trở thành cũ” khác nhau ở chỗ nào? “Nhân cách của nhà văn chính là
văn cách của anh ta.” Ý này người ta đã nói xưa quá rồi: Không cần Bà
Nhà Văn phải chỉ ra, em nhỏ lên ba cũng biết chuyện “Văn là Người“.
Câu bà viết “Tối thiểu tôi phải có một văn cách” không ăn nhậu
gì đến nhân cách, văn cách của ông Trần Dần.
Hôm nay – ngày 30 Tháng 8, 2011 – tôi, CTHÐ, viết thêm:
“Kinh nghiệm cho thấy “nhân cách” và “văn cách” khác
nhau. Nhiều ông văn sĩ Văn thật Ðẹp, Hùng, tràn đầy Khí Phách, Cương Trực, Bất
Khuất, nhưng “nhân cách” rất Hèn. Cứ đọc “Văn” mà đoán “tư
cách Người Viết,” nhiều khi ta bị hố.
o O o
Thi phẩm “Trần Dần. Thơ” có thể để tên
là “Thơ Jờ Jọaxc”, 491 trang chỉ có toàn là “jờ
joạxc truồng sẹo”.
Trích vài đoạn:
Trần Dần. Thơ. Trang 225:
tôi thíc sướng
tôi cái sẹo jữa vết xước nước ấm mét jạch lược bí
tôi cái thân chai vuông vai ngồi nhai joài joài 1 toạc jách 1 lạch juýp 1 jịp
vú 1 nụ nóc 1 jạc sử kí
tôi thích thịt
dây nịt thít mít một jờ mật thạch thật nún nút mút kiss đèn đồng hồ mờ
tôi thíc thỏa
1 ngọa cắn 1 nắn mím 1 thím nách 1 jạch phím 1 jim núm 1 jụm sách 1 lạch joác 1
xoạc bóc
tôi thán phục cái miệng hết vắt ve lăn thăn jờ thủy tạ
tôi xin cư trú thơ ca jọc jọc thì jờ truồng-vệ-xinh-công-cộng nữ
TRẦN DẦN. THƠ, trang 232:
CHÙM âm 13
con nữ tô tô jao cấu jăng nhọn chiếc ca pốt cao su jính thịt lăn
thăn vứt sẹo jọc ngày
giộb
hột
lựu
o O o
Tôi ngưng trích vì Thơ Trần Dần quá Bẩn, con người Trần Dần và
Thơ Trần Dần làm tôi tởm; con người ấy bôi Bẩn lên Thơ, người ấy hiếp dzâm Ngôn
Ngữ của Dân Tộc tôi; tôi càng tởm khi tôi thấy Thơ Trần Dần Bẩn đến như thế mà
vẫn có người ca tụng, cho là Hay. Không chỉ Hay suông mà là Hay Tuyệt!
Không chỉ xưng tụng “Thơ Trần Dần Hay Tuyệt, Con Người
Trần Dần Cao Thượng, Can Ðảm, Khí Phách,” người ta còn muốn Trần Dần được Giải
Văn Chương Nobel.
Trần Dần Jờ Dzoạc đáng được Giải Văn Chương Nô Ben. Cái Giải Văn
Chương Nô Ben Trần Dần thiếu một dấu trong 5 dấu của Chữ Việt: Sắc, Huyền, Hỏi,
Ngã, Nặng. Mời quí vị cho thêm một Dấu.