Bài viết này hoàn thành từ 1980 với tên gọi Hành động trong tuyệt vọng (Vài nét phác hoạ về chủ nghĩa hư vô trong văn chương Sài Gòn trước giải phóng) nhưng mãi tới tháng 10 2015 mới được in một lần duy nhất trên blog cá nhân của tác giả và mang tên Đi tới cùng của hỗn độn sẽ gặp hư vô https://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/10/i-toi-cung-cua-hon-on-se-gap-hu-vo.html
***
từ một câu chuyện cổ
Trong các các bài khóa đọc
trong sách Quốc văn giáo khoa thư học hồi nhỏ, tôi nhớ có câu
chuyện kể một người đi đôi giày mới vào thành phố. Ban đầu, người đó giữ gìn
rất cẩn thận. Nhưng đến quãng nọ, chợt có một bãi lầy, người đó không tránh
kịp, giày sinh bẩn. Từ đó, người có giày đâm liều lĩnh, không còn kiêng dè gì
nữa, có lúc thục chân trong bùn.
Có thể
bắt đầu từ câu chuyện trên để hình dung sơ bộ về chủ nghĩa hư vô. Hư vô nói ở
đây không phải là một luận giải triết học mà chỉ là câu chuyện của niềm tin và
cung cách cư xử trong đời sống hàng ngày. Tinh thần hư vô cổ dạy người ta vô
vi, siêu thoát, không làm gì hết, chủ nghĩa hư vô hiện đại thì biện minh cho
hành động, nhất là những hành động xấu. Đấy là khi con người không còn xác định
nổi đâu là phải, đâu là trái nữa. Sự lương thiện ban đầu đành từ bỏ. Tại
hoàn cảnh thôi, tôi đã không giữ được sự tốt đẹp của tôi nữa, chứ lúc đầu, tôi
có muốn thế đâu? Rút cục, mặc dù biết sục chân trong bùn là không nên, người ta
vẫn tìm được cách để tự biện hộ.
Trong hoàn cảnh cụ thể của
xã hội miền Nam 1954-1975, chủ nghĩa hư vô đã nảy sinh ra sao, quá trình diễn
biến của nó, đặc điểm của nó ra sao -- chuyện khá dài dòng đòi hỏi nhiều ngành
khoa học cùng tiếp cận lý giải. Dừng lại ở một số quan sát sơ bộ, trong bài
viết này, chúng tôi chỉ nói tới một vài khái cạnh của vấn đề, có liên quan tới
đời sống văn học. Mà dù đã hạn chế như vậy, cũng còn là quá rộng. Văn học ở các
thành thị miền Nam trước 30-4 bàng bạc một thứ chủ nghĩa hư vô nhẹ
nhàng, không được nâng lên thành lý thuyết, song chính vì thế lại khó nhận
diện. Bản thân người trong cuộc đôi lúc như lảng tránh, từ chối sự can thiệp
của trí tuệ, không muốn vì cho là không thể dùng trí tuệ để hiểu điều gì hết.
Trong hoàn cảnh đó, tinh thần hư vô càng ma mị biến hóa. Nó mang những đặc điểm
chung của chủ nghĩa hư vô từ trước tới nay, đồng thời lại có những khía cạnh
đặc thù mà chỉ ở miền Nam trước giải phóng, nó mới có một khuôn mặt
như thế.
---
Sản phẩm phụ
của thất bại
Dưới đầu đề Phố
miền Nam, Nguỵ Ngữ (một cây bút trẻ thường có truyện đăng ở Văn,
Vấn đề, trước 4/1975) có dựng lại một câu chuyện khá tiêu biểu: Một quán cà
phê buồn bã, những người đến uống là một tốp lính ngán ngẩm tìm chốn mua vui mà
không sao vui nổi. Tốp lính ngày một chết dần chết mòn. Ngay cái đơn vị mà họ
sống cũng vậy, nó như một cơ thể đang thoái hoá:
Danh hiệu tiểu đoàn vẫn còn
tiếng tăm thiện chiến vẫn còn, còn huy chương, còn áo quần lem luốc, còn trung
tá thượng sĩ, còn tham dự hết trận này qua trận kia, còn được tuyên dương công
trạng, nhưng thực ra, chẳng còn gì cả. Lính trẻ có đứa 17 tuổi, và bọn sĩ quan
hầu hết đều trù bị, có thằng mới 20 tuổi… Bọn già mỏi mệt và bọn trẻ chán nản.
… Một mặt trận kinh hoàng
đã qua, một đêm hiện tại tai ương không biết để làm gì và ngày mai chập chùng
chết chóc như một chân trời tai ương đi hoài không hết… Chúng tôi có một xứ sở
quê hương mịt mùng thuốc súng để chiến đấu, có một vốn liếng chung để chuyền
nhau tiêu xài với đám gái: anh sẽ ra đi không mong ngày về… Ngay từ đầu, trong
căn bản, sự chiến đấu của chúng tôi đã nuôi sẵn mầm mống thất bại.
Cảm hứng chính toát ra qua
thiên truyện là nỗi cay đắng trước mọi bế tắc, bất lực. Cuộc sống cứ như
lả ngày mỗi đi xuống, người ta nhìn thấy hết mà chịu, không sao gượng dậy.
Hẳn Nguỵ Ngữ đã có tính
toán khi đặt cho thiên truyện của mình cái tên Phố miền Nam.
Có thể xem đó là một thứ bản vẽ thu nhỏ của xã hội Sài Gòn trước giải phóng,
trong cả chiều rộng không gian lẫn chiều sâu thời gian.
Từ 1954 đến khoảng
1963-1963, bắt tay vào việc đắp điếm một xã hội vừa thoát thai từ vùng tạm
chiếm của thực dân Pháp và mới hoàn hồn sau chiến tranh, nhiều người lòng còn
đầy hy vọng. Một miền Nam độc lập, một miền Nam phồn vinh
-- họ tự mê hoặc như vậy, cái mê hoặc của những người thoát chết. Dần dà vài
năm sau, nỗi hoang mang mới len tới, hãi hùng như một cơn gió đen che mờ cả mặt
mày. Cay đắng thấm vào từng lời, thất vọng nghẹn mãi trong họng, người ta gọi
miền Nam là một quán bệnh, -- chữ của Mai Thảo -- người ta
nguyền rủa cái thực tế diễn ra trước mắt, mà lại dường như ma quái, ở ngoài tầm
tay của mình, không thể nắm bắt, không thể điều khiển, thậm chí mình cắt nghĩa
cho mình cũng không nổi nữa.
Khởi nguyên là hành động.
Có thể diễn dịch câu nói của Goethe thành ra cái ý: con người là hành động.
Nhưng hành động thì cũng có thể thành công, mà cũng có thể thất bại. Từ xưa đến
nay, gần như chưa bao giờ quan niệm hư vô lại dính liền với một người thành
công. Mà dù lúc đầu họ có xa lánh, chối bỏ, thậm chí chẳng hiểu chủ nghĩa hư vô
ra sao, thì tinh thần hư vô vẫn cứ xâm nhập vào họ, lặng lẽ, dần dà. Thực ra
thì chính họ đã đẻ ra nó, rau nào nảy sâu ấy, nào phải ai gieo rắc gì nhiều.
Trong sự cầm tù của chủ nghĩa hư vô -- chỉ cần thế thôi, có thể biết họ là
người thất bại.
Vậy thì đối với mọi người,
kể cả những kẻ nhẹ dạ vô tư nhất, ở miền Nam trước đây, quan niệm hư vô là một
thứ điểm thu hút, một trạm dừng của tư tưởng. Tựa lưng vào văn hoá phương Tây,
vận động theo một quan niệm duy lý thuần tuý, đôi lúc người ta thấy mình cũng
làm được một cái gì đấy. Kiếm ra tiền bạc. Xây dựng thêm cửa nhà. Đi đây đi đó.
Kịp đến khi nhìn ngay xuống chỗ đặt chân, thấy chiến tranh vẫn tiếp diễn, bi
thảm ngày một kéo dài, thì mới thấy hình như không phải thế. Càng thành công,
lại càng cảm thấy cái vực thẳm ghê gớm của thất bại. Cái phần không nắm được là
bao la, so với cái phần cầm nắm trong tay. Sự đau đớn hôm qua, lúc còn chui
nhủi trong các vùng tạm chiếm của Pháp, có những khía cạnh như là hợp lý của nó,
ở trong bóng tối thì phải như vậy. Sự thất bại hôm nay mới thật cay đắng, bẽ
bàng, hình như đã tiên liệu hết cả rồi, mà nó vẫn tới. Đã vận dụng đến mọi liệu
pháp có được trong tay, đã tính toán thật chi li, đã làm hết sức mình, vậy mà
vẫn thất bại. Trong sự tách rời ngày càng vô lý giữa thực trạng và ý nghĩa,
giữa nguyên nhân và hậu quả, một khu đất tốt đã được chuẩn bị để chủ nghĩa hư
vô tha hồ hoành hành. Không hư vô sao được, khi sống mà không thể dùng lương
tri để xét đoán cuộc sống? Không hư vô sao được khi cảm thấy hoàn toàn mù loà
tăm tối trên đường. Trong Chuyện tình người lỡ vận (Văn số
188), Tô Thuỳ Yên từng dựng lại cái tâm trạng rã rời đó.
Biết đã trễ nên không thèm
hối hả.
Cuộc tình này như chút đỉnh
khoan dung
Của định mệnh cũng có lần
nới thả
Hạnh phúc này như sóng rã
trên sông
Như yêu lại một người yêu
thất tiết
Xót xa này chan đổ muối
trong lòng
Đời lỡ vận một lần nên lỡ
miết
Chí lớn đành đốn sập đốt ra
than
Trong cái bối rối của thất
bại, người ta tìm tới một trăm lý do khác nhau, mà lý do dễ kiếm nhất và có sức
an ủi nhất là "lỡ vận." Nhưng bài thơ không dừng lại ở đấy. Sau khi
cảm thấy như bị lừa, con người tiếp tục tự lừa mình, nạn nhân biến thành tội
nhân, giả dối, trắng trợn.
Ta cứ coi em như hoàng hậu
goá
Dẫu biết thừa em vốn gái lê
dân
Còn ta đây: một vĩ nhân tàn
tạ
Chẳng làm nên công nghiệp
đáng lưu danh
Ta dắt em đi giữa ngày
tháng rối
Như đôi dư hồn khất thực co
ro
Cả xã hội bu quanh cười cợt
hỏi
Em cứ sắm tuồng đi, ta nhắc
cho
Em làm khôn còn ta ta giả
dại
Ngày bồn chồn ngày, đêm
khắc khoải đêm
Ta tủi thân thêm một lần
vượt ải
Nghề ngông cuồng tập mãi
cũng thành quen.
Chỉ cần một chút hư vô
thôi, thì khả năng xói mòn của nó về các phương tiện lòng tin cũng như sức lực
đã đủ làm hỏng người rồi, nữa đây lại là thứ hàng bày bán công khai, phạm vi
gây độc của nó rộng rãi lắm.
Mất lòng tin, mất phương
hướng
Thế giới hỗn tạp không sao
phân biệt nổi đâu là chính đâu là tà. Những kẻ theo chính nghĩa bị lột mặt nạ.
Cuộc đời này bị những kẻ
xấu thao túng, chúng mặc sức hoành hành. Thất bại, những người tốt cũng
không còn giữ được những gì tốt đẹp của mình nữa. Từ bỏ cuộc chơi là con đường gần
như duy nhất còn lại với người từng trải.
Đó là những triết lý chính
rút ra từ các bộ sách chưởng bán đầy ở Sài Gòn.
Nhưng đó lại là thứ thức
ăn tinh thần phổ biến ở các thành thị miền Nam, từ người trí thức đến người
bình dân đều đua nhau tìm đọc. Người mất lòng tin tìm đọc sách mất lòng tin.
Tạng người như thế, thì cần thức ăn như thế, không thể nào khác.
Qua các tiểu thuyết lớn
của Dostoievski, chúng ta đều biết có một loại nhân vật rất thích thể nghiệm
những cảm giác lạ, thích vạch trần mình trước mặt người khác, chẳng những
thích tra tấn, đánh phá tư tưởng người khác theo thói đời, mà còn -- với một
tinh thần tỉnh táo đến lạnh buốt đi -- tìm thấy những sung sướng bệnh hoạn khi
bị người khác tra tấn. Theo cái cách riêng của mình, nhiều người ở miền Nam hôm
qua, cũng như là mắc chứng bệnh vậy. Không bao giờ như trong thời gian từ 1963
trở đi, người ta đua nhau nói về thất bại, nói về sự nản lòng. Hơn một sự kiện
đặc biệt, việc đó dần trở thành một sự kiện bình thường, lây lan trong xã hội
như một thứ mốt, lây sang cả những người có đầu óc thông thường và quả đã toát
lên sâu sắc ở những người thành thực.
Từ những sự kiện lẻ tẻ,
người ta còn đi tới cả khái quát. Đấy là khi lòng tin mất đi ; hoang mang và bế
tắc, con người cũng mất luôn cả phương hướng.
Lấy một Võ Phiến làm ví
dụ, ngòi bút có tiếng là cay độc này có lúc thốt ra ngán ngẩm: "Cái bi
kịch của chúng ta là đánh mất thần tượng của mình".
Mai Thảo thì từng nói rất
hay vì sự quanh quẩn tại chỗ: Sống và chết tại chỗ. Hoài nghi cũng tại
chỗ mà hoài nghi. Thay đổi cũng tại chỗ mà thay đổi. Cuộc chạy trốn thất đảm và
vô ích nhất. Vì là cuộc chạy trốn không cùng về trước mặt.
Và về bất lực: Cuộc sống dù ngọt ngào tới
đâu cuối cùng rồi cũng giết chết ở mỗi người mọi khả năng mơ mộng và tưởng
tượng. Nghìn cửa ngõ đã mở cho thiếu đi một cửa ngõ hoang đường.
Nói cho đúng ra, mỗi người
chỉ mất đi những gì mình ngẫu nhiên mà có. Về mặt niềm tin, cũng chưa bao giờ
những người ở các thành thị miền Nam này có được một niềm tin chắc chắn, hơn
nữa, một niềm tin lớn lao, cao đẹp. Chẳng qua là họ chỉ cảm thấy cuộc sống quá
bức xúc, muốn kiếm tiền thật thoả thuê, muốn xoay xoả cho thoải mái hơn nữa, mà
chưa được như ý muốn. Còn như một số niềm tin mà họ nói rằng đánh mất, thực
chất chỉ là những niềm tin giả tạo, tự nó không có ý nghĩa gì hết. Về mặt này,
thiên truyện Vì sao côi cút của Trần Hoài Thư (in trên Bách
Khoa 1974) khá tiêu biểu. Truyện kể lại trường hợp hai thanh niên trốn lính
- một người ham thích các chuyện chính trị, thường chăm chú đọc báo; còn người
kia - kẻ xưng tôi trong truyện - thì ham thích nghệ thuật, tình yêu. Đến quận
lị nọ, tôi theo người bạn kia đến thăm một nhân vật được miêu tả là "nổi tiếng
và người bạn vẫn hằng kính trọng". Hoá ra, đó là một tên chuyên đi lừa
bịp. Đến khi tôi quay về với nghệ thuật, với tình yêu, thì cũng không gì khác
là sự phản bội: người yêu đã đi lấy chồng. Tôi cay đắng, ẩn trốn.
Trong kho tàng truyện cổ
dân gian Việt Nam, có câu chuyện anh chàng nọ mua phải một đàn ngỗng
trời. Đặt cọc
vào những điều hão huyền, bi kịch của hai thanh niên trên đây cũng có phần
tuơng tự. Vả không phải chỉ một hai người, mà gần như cả xã hội hôm qua cũng
nhiều phần như họ, cũng đặt cọc vào những điều hão huyền, cũng tự lừa mình, và
cay đắng bị lừa. Biết bao nhiêu kẻ thiện ý xây dựng cái xã hội đó, như một Võ
Phiến, chống cộng bằng tất cả niềm tin sẵn có, chống cộng như các tôn đồ trước
kia tử vì đạo, rồi ra lại vật mình vật mẩy kêu ầm lên rằng những lời kêu gọi mà
mình đưa ra, bị ném vào quên lãng. Trong nhiều truyện ngắn truyện dài, các nhân
vật lính tráng của Dương Nghiễm Mậu từ các vùng tiền đồn xa xôi trở về thường
nhìn Sài Gòn với con mắt căm thù và cảm thấy mình bị phản bội. Năm 1960, trong
khi những Mai Thảo, Nguyễn Mạnh Côn lòng còn náo nức hy vọng, thì trong tập
truyện ngắn Cũng đành, Dương Nghiễm Mậu đã cảm thấy một cái gì đổ
nát rạn vỡ. Khoảng mấy năm 1970-71, trong tập Nhan sắc, mượn truyện
lịch sử, nhà văn này ngả sang một quan niệm bất khả tri cho rằng lịch sử nhiều
khi là bịa đặt tuỳ tiện, sai đúng lẫn lộn. Sau hiệp nghị Pari, khoảng
1973-1974, ông lại cảm thấy muốn từ giã tất cả. Ẩn sau những chống phá quyết
liệt, cái mầm hư vô thất bại ở cứ lớn dậy như một đứa con hoang và ngày càng
thắng thế. Trẻ tuổi hơn những Võ Phiến, Mai Thảo, Doãn Quốc Sỹ, không thể nói
là Dương Nghiễm Mậu bị ám ảnh bởi những mặc cảm sâu xa như các bậc đàn anh.
Viết nhiều, viết khoẻ, sống bằng ngòi bút một cách cần mẫn, không thể nói là
ông quá bốc đồng và nói chuyện hư vô cho sang, cho hách, như một vài cây bút
non yếu hơn. Lại nữa, trong khi những Thanh Nam, Tuý Hồng, Thuỵ Vũ, Duyên Anh
loanh quanh hết Huế, Sài Gòn, bôi ra mà viết, thì ông lăn lộn với lính tráng,
bay xuống Cà Mau, Đồng Tháp, lên các vùng tiền đồn xa xôi, năm 1972, có mặt ở
Quảng Trị. Trên nhiều phương diện, ngòi bút Dương Nghiễm Mậu là nhập cuộc là
xông xáo, bởi vậy sự thất vọng, bất lực, mất phương hướng, mất lòng tin ở
ông mới thêm khả năng lây lan hơn hẳn những người khác.
Sự khủng hoảng giá trị
Từ cảm giác thất bại, đến
mất phương hướng, mất lòng tin, đã có một sự về biến đổi về chất. Thăng
hoa lên một lần nữa - thăng hoa như siêu hình học vẫn gọi - đó là chủ nghĩa hư
vô. Từ sau đại chiến thế giới thứ hai, kinh động trước những hoành hành ghê gớm
của thứ dịch hạch phát xít, cũng như hoang mang trước những thành tựu mà cuộc
cách mạng khoa học kỹ thuật mang tới, con người châu Âu trải qua một cơn khủng
hoảng triền miên và hết sức nghiêm trọng. Những người duy lý bậc nhất đi đến cùng
trên con đường đã chọn, chợt nhận ra đã rơi vào phi lý lúc nào không biết. Con
người lại kết tội con người. Ý thức bị chính ý thức lên án. Trong sự làm ra
thật nhiều của cải, người ta chợt ghê sợ trước tất cả những gì mà mình đã làm
được. Nỗi thất vọng về chính mình chính là và bao giờ cũng là một nỗi thất vọng
ghê gớm. Giá như không có phương tiện xoay sở, rơi vào bế tắc nên khoanh tay
đứng nhìn, thì còn nhẹ nhõm; đằng này do quá thừa mứa, mà cũng do các chủ thể
quá năng động, nỗi thất vọng sau hoạt động ấy mới càng nặng nề. Dễ chưa bao giờ
ngôn ngữ nhân loại biết được những lời lẽ diễn tả sự thất vọng sâu cay như châu
Âu hiện nay. Những tư tuởng hoài nghi, bi quan đó giống như một thứ thuốc
kháng sinh rất độc, xâm nhập tàn phá mọi cơ thể mọi miền đất, càng những cơ thể
ốm yếu, như cái đất thực dân cũ ở Đông Nam Á, thì sức tàn phá của nó càng
ghê gớm.
Trong Thư mở đầu của Vấn
đề số 4, Thanh Tâm Tuyền, khi ấy là thư ký toà soạn tạp chí, từng than
phiền:
Tình trạng suy nhược tin
thần ở Sài Gòn đang thành một cơn bệnh nặng.
… Sự suy nhược tinh thần
dồn người ta vào một cơn say thiếu máu, nói như những người lên đồng và múa may
trong một xã hội tuyệt vọng. Người ta sợ phải suy nghĩ, nhất là suy nghĩ một
mình.
…Náo động trong bưng bít
và thụ động trong mơ ước đều là những chứng mệnh kiệt quệ của một căn bệnh hiểm
nghèo.
Tại sao? Thanh Tâm Tuyền
không nói rõ, mà chỉ mô tả một trang thái có thực. Người nhận lấy việc cắt
nghĩa này, không ai khác, lại là Võ Phiến.
Đây đó, có lúc Võ
Phiến có thấy vấn đề một cách sâu sắc hơn.
Cái gì làm nản lòng hơn, ở
thời chúng ta, ấy là sự sụp đổ năm lần bảy lượt, liên tiếp các giá trị
tinh thần (V.T.N. gạch dưới). Dân tộc đang sống theo nền
nếp, bỗng một cuộc biến thiên đến, làm xáo trộn cả chiều hướng văn hoá: những
nguyên tắc đạo lý hôm qua coi là thiêng liêng, hôm nay bị chế giễu tơi bời,
những tên tuổi hôm qua coi là hiền triết thần thánh, hôm nay bị xỉ vả là gieo
rắc tư tưởng lạc hậu.
Đúng là trong mỗi giai
đoạn lịch sử ở mỗi xã hội đều thấy hình thành cái đó, các giá trị tinh thần.
Muốn biết một xã hội trưởng thành đến đâu, nó có ổn định vững chắc hay không,
phải xem xét hệ thống giá trị mà nó coi là nền tảng. Khi một xã hội đã tao loạn
tới mức những chuẩn mực cho người ta dựa vào đó mà sống đã sụp đổ, trước sau xã
hội đó sẽ tan rã.
Khi nói về chủ nghĩa hư
vô, các tài liệu lý luận Đông-Tây không thể không nhắc tới một nhân vật quan
trọng là Nietzsche (1844-1900). Khi viết về chủ nghĩa hư vô, các bộ sách lịch sử triết học – kể cả loại sơ giản - sau khi xác định
đó là một hiện tượng xã hội, muốn phủ nhận các giá trị như lý tưởng, khuôn mẫu
đạo đức, văn hoá.v.v… còn dẫn ra nhận xét tóm tắt của Nietzsche : "Hư vô
là những gì cao hơn giá trị, bị mất giá trị. Không mục đích. Không trả lời cho
câu hỏi: để làm gì?". Với Nietzsche, việc sáng tạo các giá trị là sự kiện
cơ bản của lịch sử nhân loại. Theo Nietzsche, giá trị quan trọng hơn mọi sự
kiện và việc đáng làm nhất là biến đổi các sự kiện ra giá trị.
Trước khủng hoảng, những
giá trị cổ truyền gắn liền với niềm tin vào một đấng tối thượng là Chúa, tức
với niềm tin vào môt cái gì bất tử. Nay niềm tin đó không còn nữa, mọi chuyện
như hụt hẫng, mất chỗ bấu víu, và lòng người cũng không sao tìm được sự yên ổn,
cố hữu. Chúa đã chết rồi, lần đầu tiên Nietzsche nói, và về sau, bao nhiêu người
còn nhắc lại. Một quá trình tư tưởng như thế đã xảy ra. Đi kèm với niềm thảng
thốt là một nỗi kinh hoàng lây truyền từ người nọ sang người kia, từ đó ra đời
rất nhiều tác phẩm nói về sự hỗn loạn trong đời sống hiện đại.
So với sự thịnh vượng của
châu Âu sau cách mạng tư sản, cái thời của Chúa, thì cái thời của sự ổn định mà
xã hội Sài Gòn sau 1954 gọi là có ít ngày thì cũng rất ngắn ngủi, rất mong
manh.
Nhưng không phải vì thế mà
người ta không chia sẻ nỗi cay đắng về chỗ mất đi những mực thuớc để
sống.
Làng xóm bị bom đạn Mỹ cày
xới. Thành thị tập trung dân, những mối quan hệ cũ tan rã, những mối quan hệ
mới chưa hình thành, chỉ riêng những xáo trộn đó đã làm nảy sinh bao khủng
hoảng. Trên kia, chúng ta đã nhắc qua những nhân vật người lính của Dương
Nghiễm Mậu, Phan Nhật Nam từ các tiền đồn trở về căm ghét cuộc sống Sài Gòn ra
sao. Chiến tranh trở thành bình thường, người ta vừa phải sống rất căng thẳng,
sống gấp cốt sống lấy được mà không cần nguyên tắc gì hết, lại vẫn phải lo làm
ăn sinh con đẻ cái, lo học hành vui chơi giải trí, như mọi kiếp sống bình
thường. Nếu không tranh thủ hưởng thụ đi thì đến bao giờ hưởng thụ. Khi đã phải
dùng đến quá nhiều tiêu chuẩn, những tiêu chuẩn khác nhau để xem xét, thì còn
biết sao là phải là trái nữa? Đại khái, như trong cuộc phỏng vấn về tuổi trẻ
Việt Nam đăng trên báo Khởi hành, một bạn trẻ đã sơ bộ gợi ra sự
lúng túng của rất nhiều người.
Nhiều khi đi ngang qua
đường phố gặp những cậu trai 15, 17 mà đã bắt chước cà phê, thuốc lá, ăn mặc lố
lăng, tôi thấy ghê tởm và khinh ghét họ. Nhưng sau những đêm kinh hoàng vì pháo
kích, tôi lại thấy thương mến họ rất nhiều.
Bắt đầu một cách rất giản
dị, nhưng những lẫn lộn trong tình cảm trên đây là gì, nếu không phải là báo
hiệu của một khủng hoảng thực sự, trên mọi phương diện của cuộc sống. Trong bài
điểm lại Những nét lớn về sinh hoạt nghệ thuật 1970, Mai Thảo cũng
nói đến hiện tượng trống đánh xuôi kèn thổi ngược: "Trong tiếng súng nổ,
cả nước đang sáng chiều nghe nhạc". Nhân một kẻ nổi loạn trong thành phố
rồi tự tử chết, Dương Nghiễm Mậu cảm khái và tìm cách cắt nghĩa: "Hắn đã
chết trong một xã hội mà kẻ phản bội nói trung thành, kẻ dơ bẩn nói trong sạch,
kẻ vô hạnh nói phẩm giá." Dường như chính Dương Nghiễm Mậu muốn thay mặt những
người đã chết nói một sự thật, nhưng điều đó có nghĩa lý gì, xã hội Sài Gòn hôm
qua đủ bàng quan, lạnh nhạt để nhắm mắt trước mọi sự thực tương tự.
Tóm lại, sự khủng hoảng
các giá trị, nói cách khác là những khủng hoảng những thước đo chung, được mọi
người công nhận - thực chất của nó là khủng hoảng các quan hệ lớn trong xã hội.
Giữa cá nhân và xã hội, mọi mối ràng buộc xộc xệch. Trên phương diện thời gian,
hoặc hiện tại quá mong manh mà quá khứ quá nặng nề, hoặc lấy tương lai làm vật
hy sinh cho hiện tại, đủ thứ so le mà cũng đủ chuyện giả trá, hư nguỵ, không
sao kiểm soát nổi. Mà khi những giá trị này đã được "thả nổi" để
"tuỳ nghi", thì sự hỗn loạn không còn là trong phạm vi nhỏ hẹp nào
nữa. Không phải là từng hành động riêng rẽ, mà là toàn bộ hệ thống hành động
của người ta hỗn loạn. Tưởng là quy vào phạm vi tinh thần rồi mọi sự lúng túng
sẽ được gỡ ra, ngờ đâu, đến tinh thần cũng hỗn loạn, thì sự hỗn loạn mới thật
là hoàn chỉnh, và mở đường cho mọi sự hỗn loạn tiếp tục.
Hành động trong tuyệt vọng
Hamlét vĩ đại vì tầm vóc
của những suy nghĩ mà nhân vật này trải nghiệm trước khi hành động. Tồn tại hay
không tồn tại, con người bận tâm tới câu hỏi đó có lúc bị người đời coi là bạc
nhược. Nhưng biết sao được? Trong lúc chưa tìm được phương hướng đúng, hành
động chỉ thất bại, thậm chí là lầm lỡ thêm.
Trong thời đại bế tắc của
mình, các nhân vật tích cực của Tchekhov đều đứng đó bơ vơ, lạc lõng. Còn những
kẻ hoạt động ở đây, chính là những kẻ bị lịch sử lên án.
Soi vào hoàn cảnh miền Nam
trước giải phóng, tình hình khác hẳn. Chẳng có ai là chịu đứng tách ra
không hành động. Nhưng hành động thế nào bây giờ?
Trở
lại với cái câu của Goethe, mà trên kia tôi đã dẫn khởi nguyên là hành
động. Có một điều mà người ta hay quên chính tác giả Faust là
người từng nhấn mạnh
thêm : Sự hoạt động làm tê liệt tư tưởng.
Khi người ta chỉ hành động
theo thói quen, hành động một cách mù quáng, thì bản thân hành động không thể
đúc kết lại thành tư tưởng đúng đắn, và dần dà đó đã là một thứ hành động vì
hành động, hành động như là dấu hiệu của bất lực.
Hãy thử
nhìn sự diễn biến của hư vô trong lịch sử.
Trong xã
hộị trung cổ, khi hư vô, thường người ta im lặng chịu đựng. Cũng có một số
người nổi loạn, nhưng không mang lại kết quả gì đáng kể, cuối cùng thấy rằng
lảng tránh vẫn còn hơn đầu hàng. Mà lại dễ chịu, lương tâm vẫn yên ổn, vì tự
cảm thấy mình trong sạch "" Sau khi để cho nhân vật Thuý Kiều của
mình đi đến cùng của mọi sự phiêu lưu mà vẫn không được việc gì, Nguyễn Du chỉ
còn có cách tìm niềm vui trong quên lãng, hoặc ở ẩn giữa triều đình, làm một
ông quan bất lực. Câu thơ nghêu ngao vui thú sơn hà - mai là bạn cũ, hạc là người quen vận vào đây là vừa hợp.
Ít nhiều hư vô thuở ấy còn
là khả thủ, còn chấp nhận được vì nó bó hẹp trong phạm vi một hai cá nhân nào
đó và không dẫn tới bừa bãi phá phách.
Nay thì ngược lại.
Bên cạnh một thoáng tích
cực, một trong những phương hướng phát triển của chủ nghĩa hư vô ở các
nước phương tây hiện đại là nó hướng người tới sự tự do tùy tiện. Khi tự nhủ
rằng Chúa đã chết tức là người ta tự bảo muốn làm gì thì làm. Đến với các
thành thị miền Nam trong chiến tranh, cách nghĩ này thúc đẩy người ta sa chân
vào con đường lỗi lầm. Làm giàu một các bất lương, ăn cắp, giả trá, chém giết
nhau cho hả giận, -- gì người ta cũng dám làm. Khi các giá trị đã không còn để
làm mực thước thì một ít lệch chuẩn như vậy phỏng có tội tình gì. Mọi hành động
xấu luôn tìm được một hành động xấu hơn để đối chiếu. Mọi hành động xấu ai cũng
biết -- mà lại không thể và không được xem xét, lý giải nhất là lên
án một cách đúng đắn -- sẽ có sức nẩy nở sinh sôi ghê gớm.
Mối quan hệ giữa hư vô và
hành động liều lĩnh là mối quan hệ hai chiều, cái nọ dựa vào cái kia để tồn
tại. Vả lại, nghề này thì lấy ông này tiên sư, suy đi nghĩ lại, đã
sa chân vào sai lầm thì chỉ có hư vô là thích hợp hơn cả. Sự quyến rũ của chủ
nghĩa hư vô là ở chỗ nó xu nịnh con người; trong quy chế của nó, người ta được
tiếp tục làm mọi điều người ta ưa thích. Một thứ giao kèo đã được ngấm ngầm
thoả thuận, không ai nói ra, nhưng ai cũng nghĩ, thử giao kèo ký với quỷ sứ.
Trong bước lầm than của mình, nàng Kiều của Nguyễn Du, lòng còn trong sáng, tâm
trí còn lúc lúc dậy lên những khao khát chiêu tuyết, làm lại cuộc đời. Nay
những người chân sục trong bùn đã đánh mất luôn cả cái tâm thành thuần
khiết đó, họ trượt dài trên con đường đã chọn, không hối hận, không ngại ngần.
Cho hay, đến ngày giải phóng, khi một cây bút chống cộng than tiếc - "giờ
đã đến cái quãng sông Tiền Đường của đời mình rồi" - thì một nhà văn
khác cãi lại ngay:
- Làm sao mà họ có thể tự
ví với kiếp đời cô Kiều được?
Ma đưa lối quỷ đưa đường, như Nguyễn Du đã miêu tả
rất tài tình, cuộc đời con người tài hoa có tên Thuý Kiều là cuộc đời của một
con người bất lực, không sao có được cảm giác hiện thực về đời sống, không sao
tìm ra đường đi của mình. Hoàn cảnh xã hội bấy giờ đen tối mịt mùng chưa cho
phép con người nhận thức được những vấn đề cơ bản của đời sống. Nay với những
người hoàn toàn có điều kiện hiểu rõ sự thực, đã thật giả phân minh, hư vô đồng
nghĩa với từ chối trách nhiệm, theo thói quen mà tự lừa dối, vì cầu an mà
buông trôi, vì "đã chót nhúng chàm" mà càng nhắm mắt chống lại sự
thực. Làm sao những người ấy lại có thể tự ví với nàng Kiều được?
Trong tác phẩm, các nhân
vật tuyên bố một lối sống trắng trợn công khai, đại khái như Tuý Hồng từng
"đơn ca":
Sống đâu phải là tạo dựng
những kỳ công và gục xuống trên một cái chết không thường ? Sống đâu phải là
đặt ra những vấn đề và day dứt và thao thức. Vấn đề duy nhất của cuộc sống,
chính là sống vậy.
Và sống? Là cảm thấy thiên
thu trong mỗi phút giây. Là cảm thấy thiêng liêng trong từng hành động nhỏ. Như
ăn uống năm ngồi. Như chải đầu soi gương… Sống cuồng nộ bất kham. Sống kích
động giãy giụa. Lướt qua ngọn lửa, vọt theo lao, cuốn theo gió lốc, trườn mình
trong sấm sét, hào hển, thở dốc, ngất ngư cảm giác.
Dấu binh lửa của Phan Nhật Nam là
gì, nếu không phải là lời tự thú của một thanh niên trai trẻ dần dần đánh mất
cái phần trong sáng của mình, dấn thân vào tội lỗi? Khoảng cách giữa Dấu
binh lửa với các tác phẩm về sau của Phan Nhật Nam (Dọc đường số
một, Mùa hè đỏ lửa) rất rõ, trước tiên là ở thái độ của nhân vật chính với
cuộc đời. Ở quyển sách đầu, đây đó chúng ta có thể bắt gặp một tâm hồn còn run
rảy, còn khao khát. Ở những quyển sau, chỉ có một thái độ bốc nhập cuộc
liều lĩnh và nói lấy được.
Nét đặc biệt của văn
chương Sài Gòn trước giải phóng là sách vở rất gần cuộc đời, sống sao viết nấy,
viết để thể nghiệm cuộc sống, và thông báo cho mọi người biết về cuộc sống của
mình. Phan Nhật Nam là như thế mà những bậc đàn anh, Mai Thảo và Doãn Quốc Sỹ,
Nguyễn Mạnh Côn và Chu Tử v.v.. cũng làm như thế.
Loại nhà văn sống
công chức hoặc làm nghề giáo trong thời gian đầu dần dần thưa thớt đi, ngày
càng thấy những văn sĩ kiêm áp phe chạy hàng sách và bản thân việc viết
lách cũng là áp phe. Đề tài gì cũng viết được, mặt hàng nào cũng biết làm tuần
chay nào cũng có nước mắt. Giày đã bẩn rồi, từ nay chân tha hồ thục trong bùn,
nhìn ra mọi người lại cũng lấm lem cả rồi, sức chống đỡ của cá nhân thì mong
manh, mà sức cám dỗ của tội lỗi thì thật ghê gớm. Tấn kịch của những người viết
ở Sài Gòn hôm qua cũng là thảm kịch của nhiều người ở những nghề khác, của cả
xã hội miền Nam.