Thi
Vũ Võ Văn Ái
Vì sao Việt Nam không có tác phẩm
ngang tầm thế giới ?
(Trích bài
nói tại Đại học Berkeley ngày 19.12.2021)
Nguồn: http://www.gio-o.com/GioO10Nam/20ThiVu.htm
Cùng thì chiến tranh hay
nội chiến như Việt Nam, nhưng văn hào Tolstoy đã viết thành tác
phẩm Chiến tranh và Hòa bình ngang tầm thế giới. Sách
là bức tranh vô cùng lớn về nước Nga phong kiến, về cuộc đấu tranh
giành tự do của nhân dân khoảng 25 năm đầu thế kỷ 18, và miêu tả hai
cuộc chiến, từ cuộc viễn chinh nước ngoài năm 1805-1807 đến cuộc
chiến tranh vệ quốc năm 1812.
Còn tình hình văn học,
văn nghệ nước ta tiến triển ra sao sau cuộc nổi dậy của toàn dân năm
1945 ?
Sau một thời gian ngắn
ngủi mấy năm của toàn dân tham gia kháng chiến giành độc lập, chúng ta
có được những dòng văn thơ lóng lánh hồn người, hồn dân tộc. Xuất
hiện như sự chồm tới, làm mới và vượt cao khỏi thời đại Thơ Mới, như Bên
kia Sông Đuống của Hoàng Cầm :
…
( lược bỏ một đoạn trích thơ VTN)
Hoặc Hữu Loan với bài
thơ khóc người vợ trẻ trong chiến chinh. Bài thơ bị chính quyền kháng
chiến cấm phổ biến, nhưng rồi cả nước ai cũng biết, cũng học thuộc
lòng, được nhiều nhạc sĩ ở Miền Nam phổ thành ca khúc Màu
tím hoa Sim :
…
( lược bỏ một đoạn trích thơ VTN)
Cũng Hữu Loan nhưng hơi
thơ đầy hạo khí, ngát hồn thiên cổ qua bài Đèo Cả :
Đèo Cả ! Đèo Cả !
núi cao ngất
mây trời Ai
Lao sầu đại dương
dặm về heo
hút
Đá bia mù sương
…
Đặc biệt với Nguyễn Đình
Thi qua bài Sáng mát trong như sáng năm xưa :
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu
hương cốm mới
Cỏ mòn thơm mãi dấu
chân em
Gió thổi mùa thu vào
Hànội
…
Những câu thơ, những bài thơ Nguyễn Đình
Thi bị đem ra tranh luận tại Hội nghị Tranh luận Văn nghệ ở Việt Bắc
(25 – 28.9.1949). Tố Hữu công kích đã đành, mà Xuân Diệu, Thế Lữ,
Thanh Tịnh cũng chê thơ Thi. Thế Lữ cảnh báo thơ Nguyễn Đình Thi “nguy
hiểm và còn là một cái nguy cơ”. Lưu Trọng Lư đòi “tống cổ ra
khỏi nền văn học mới, nền văn học kháng chiến và cách mạng”. Ấy chỉ
vì trào lưu văn học lúc này, năm 49, đã đi vào đường lối văn học Diên
An của Mao Trạch Đông bên Tàu, nền Văn học trại lính nhằm
tuyên truyền vận động giới Công, Nông, Binh.
Từ đó trở về sau văn học Miền Bắc chỉ
bước hai bước thông qua nền Văn học Tố Khổ rồi
nền Văn học Chấn thương.
Chưa thấy bước thứ ba.
Cuối tháng 11 vừa qua, Hà Nội tổ chức
Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần 3. Báo chí trong nước đồng loạt tụng
ca “sức lan toả của Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần 1” ngày
25.11.1946 dưới quyền chủ toạ của ông Hồ Chí Minh 75 năm trước. Trước
những ngợi ca hậu kỳ này, tôi đọc thấy lời bình phẩm của nhà văn,
nhà biên khảo Lại Nguyên Ân cho rằng “Mấy chuyên gia viết bài
về vụ này gần đây, dù gì cũng chỉ kế thừa tình trạng “mù thông
tin” suốt 70 năm ! Chả thế mà có những diễn ngôn “chắp cánh” vô lý
và vô lối !”.
“- Nói sức lan toả của Hội nghị Văn hoá
Toàn quốc lần thứ nhất” – Thật sự hội nghị chỉ họp một ngày rồi
các đại biểu về lo tản cư rời Hà Nội, cái “lan toả” chỉ là tản
cư”.
Riêng tôi, dư vị của Hội nghị Văn hoá lần
thứ nhất ấy cho tôi được biết tên tuổi những nhà trí thức, học giả
lừng danh vào buổi bình minh giải phóng dân tộc. Đó là 15 Uỷ viên Văn
hoá được bầu ra tại Hội nghị lần thứ nhất nhằm phục vụ văn hoá cho
dân và nước. Mười lăm vị ấy nay ở đâu, họ đã làm được gì suốt 75 năm
qua ?
Ngoại trừ một số vị tiếp tục theo con
đường mòn Hồ Chí Minh, còn tám vị đã bị đào thải, truy bức, thảm
sát, tù tội một cách phi văn hoá, hay tị nạn văn hoá ra nước ngoài
như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn :
- Nguyễn
Mạnh Tường
- Khái
Hưng
- Nguyễn
Hữu Đang
- Hồ
Hữu Tường
- Hoàng
Xuân Hãn
- Đào
Duy Anh
- Nguyễn
Thiệu Lâu
- Trương
Tửu.
Nói theo sự đánh giá của Nhà Biên khảo
Lại Nguyên Ân, thì “từ Hội nghị Văn hoá Toàn quốc lần thứ 2
ở Đào Giã năm 1948, văn hoá thành tên hề đồng lóc cóc chạy theo Tuyên
giáo của Đảng làm thứ Văn hoá minh hoạ. Đổi mới “cởi trói” được
vài năm rồi “trói lại”.
Văn học, văn nghệ làm con ngựa thồ
cho Đảng. Văn nghệ sĩ mồ côi ý tưởng. Sáng tác trở lại cái
gọi là “thuật nhi bất tác”. Chỉ kể lại, chỉ tả lại cái Đảng muốn
mọi người theo gương. Chẳng còn gì là sáng tạo, sáng tác.
Cái Tôi thời đại quá lớn đã chèn ép, nghiến đè
những cái tôi cá thể hồn nhiên vạm vỡ của tất thảy chúng ta, khiến xã hội hồn
xiêu phách lạc.
Tuy nhiên qua các phê phán của Kubin ta nhận
ra phần nào sự tương đồng của văn học, văn nghệ đương đại Việt
Nam. Không biết ngoại ngữ và không tiếp cận văn học thế giới vẫn còn
là điểm yếu của một số lớn nhà văn Việt Nam. Qua Facebook, nhà văn
Vương Trí Nhàn cho biết : “Trong những năm trước 1975, văn học
Mỹ hiện đại ít được biết tới ở Hà Nội (…) Trên các trang lý luận,
phê bình của báo chí từ nước ngoài bị cấm cửa”. Mãi đến
năm 1973, nhà văn Vương Trí Nhàn mới đọc được Hemingway ! Trong loạt
bài Nhật ký chiến tranh, ông nói lên nỗi ngạc nhiên khi đến
chiến trường Quảng Trị thấy qua các nhà dân “nguỵ”, lính “nguỵ đầy
sách, từ tiểu thuyết đến lịch sử, triết học, sách đánh giá cân bằng
vai trò Gia Long và Quang Trung… Ông bắt gặp các tạp chí Tư Tưởng,
Đối Diện nói về Sartre, Machado, Brecht…
Nhiều văn nghệ sĩ hay xuất thân bộ đội
đều thán lên về lượng sách phong phú các thể loại mà họ tìm thấy
qua các lần tịch thu văn hoá phẩm nguỵ sau 75.
Nhà văn Trung Trung Đỉnh nhắc lại qua một
cuộc phỏng vấn : “Tôi được đặc cách chọn sách quý khuân về, cho vào
mấy cái tủ sắt cất kỹ. Đi chiếu bóng, hễ cứ rỗi tí nào là đọc sách. Đọc nhiều,
đọc liên tục. Đọc mờ cả mắt! Đọc sướng lắm! Đó chính là thời gian tôi đọc được
nhiều sách nhất, đủ loại, từ văn học cho đến Kinh Thánh… Hồi ấy ở miền Bắc làm
gì có!”.
Văn học đã không thể sinh sôi nơi Xã hội
Chủ nghĩa, nơi người ta chỉ chú tâm tới chính trị sắc máu, chẳng ai
quan tâm con người. Nói tới người, họ chỉ quan tâm con số, số
đông – tập thể. Bỏ quên mọi thân phận cá thể.
Cho nên không thể đẻ ra tác phẩm ngang tầm
thế giới !
Vì sao như vậy ?
Vì lãnh đạo văn hoá, văn học Việt Nam chìm
đắm trong sự nô lệ tinh thần và vọng ngoại. Hơn 70 năm qua đa số giới
lãnh đạo Cộng sản ở Hà Nội chỉ muốn làm người học trò ngoan ngoãn của
Mao Trạch Đông. Suy nghĩ, viết lách, hành động, nhất nhất đều theo
lối Mao viết kiểu Khổng viết nhiều thế kỷ xưa.
Cuộc rèn cán chỉnh quân ở
Việt Bắc từ 1949 trở đi là học tập phong trào Chỉnh phong của
Mao bên Trung quốc khởi đầu năm 1941, tức đảng phong, học phong, văn
phong. Thực tế, chỉnh phong trá hình âm mưu cho Mao dựng vị trí bá chủ
trong lĩnh vực tư tưởng. Hậu quả gây chết chóc, thanh toán hàng chục
nghìn trí thức, văn nghệ sĩ người Hoa. Một năm sau Chỉnh phong, xuất
hiện văn kiện chủ yếu trong việc lãnh đạo văn hoá, văn học, gây ảnh
hưởng sâu đậm biến thành nhược thức Việt Nam. Đó là Bài nói
chuyện của Mao tại cuộc Toạ đàm Văn nghệ ở khu chiến Diên An gồm
Diễn văn khai mạc Mao đọc hôm 2 tháng 5 năm 1942 và Diễn văn kết luận
đọc hôm 23 tháng 5 năm 1942. Xuống lệnh trỏ ra ba vấn đề chính yếu :
- Lập
trường, lấy lập trường giai cấp vô sản,
- Thái
độ, phân biệt bạn – thù,
- Đối
tượng, lấy Công Nông Binh làm đích cao phục vụ.
Tuy Mao noi gương, ca tụng tiếp thu cuộc vận
động văn học và dân chủ Ngũ tứ đầu thế kỷ. Kỳ thực phương hướng văn
nghệ đấu tranh Mao đề cao ở Diên An nhằm phục vụ chính trị. Chẳng
dính chi tới cuộc vận động Ngũ tứ mang hai mục tiêu rõ rệt :
Ngoại tranh quốc
quyền
Nội tranh quốc tặc
Dựng lên nền độc tài trong văn học khác
chi kẻ chạy đua một mình, dù chân què thọt, cũng sẽ luôn luôn
về nhất.
Dưới cái nhìn của nền văn học, văn nghệ
Diên An, quần chúng văn nghệ sĩ người Hoa bấy giờ phủ nhận tất cả di
sản quốc gia và thế giới. Shakespeare bị xem là tên phản động, Balzac
là tên đầy tớ của chủ nghĩa nhân đạo tư sản, Tolstoy là tên địa chủ
cuồng tín đạo Cơ đốc, Đỗ Phủ là tên vô lại, tranh Tề Bạch Thạch bị
xé vứt…
Một năm sau Bài nói chuyện của Mao, năm
1943, người học trò An Nam Trường Chinh mô phỏng Mao viết ra Đề
cương Văn hoá Việt Nam làm cuộc vận động Tân văn hoá
Mác xít cho Việt Nam.
Trong Đề cương văn hoá này, Trường Chinh
chia văn hoá Việt Nam ra làm hai thời kỳ :
- “Thời
Quang Trung trở về trước, văn hoá Việt Nam nửa phong kiến, nửa nô lệ;
- “Thời
Quang Trung trở về sau cho đến Pháp thuộc, là văn hoá phong kiến có xu
hướng tiểu tư sản.
Ông Trường Chinh muốn làm chuyện to tát là
văn hoá, tiếc thay sự hiểu biết về văn hoá và lịch sử Việt Nam của
ông còn sơ lược, thô thiển. Ông không hiểu rằng chế độ phong kiến chỉ
tồn tại ở các nước phương Tây. Tại Á châu, Trung quốc, Nhật Bản có
chế độ phong kiến. Việt Nam thì không. Chế độ phong kiến vua chia đất,
phong hầu. Người được phong hầu sống bằng thuế dân cư ngụ trên thái
địa mình. Còn ở Việt Nam không như thế. Việt Nam theo chế độ quận
huyện do quan cai trị. Đến như thời Vua Hùng cũng chia làm 15 bộ đặt
quan cai trị, không có những tiểu quốc chư hầu như dưới chế độ phong
kiến các nơi.
Lạ thay, Trường Chinh và một lô chính trị gia
Việt Nam không ngớt và không ngừng gào kêu “Chống Phong kiến” suốt bảy chục năm
qua. Làm sao chống cái không có ?!
Một trí tuệ kỳ vĩ như cụ Phan Khôi, một
nhà báo, nhà văn, nhà thơ, dịch giả, học giả, đã từng viết bài phân
tích Lịch sử nước ta không có chế độ Phong kiến đăng
trên báo Phụ Nữ Tân văn từ năm 1934 ở Saigon – 87 năm
trước !
Đề cương Văn hoá của ông Trường Chinh không
úp mở gì nữa khi đề cao vai trò độc tôn lãnh đạo văn hoá, tư tưởng
của người Cộng sản. Ông viết :
“Cách mạng văn hoá muốn hoàn thành phải
do Đảng Cộng sản lãnh đạo”
Ông đề ra 3 nguyên tắc vận động văn hoá
mới : Dân tộc – Đại chúng – Khoa học.
Ông đề cao “Duy vật Biện chứng
đánh đổ những sai lầm của triết học Âu Á : Khổng Mạnh, Descartes,
Bergson, Kant, Nietzsche. Chống hết mọi chủ nghĩa cổ điển, chủ
nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa tượng trưng, v.v…”. Nghĩa
là chống hết không nương tay.
Thật là một chủ trương Hư vô !
Với hướng đi và chủ trương như thế, làm
sao có sáng tạo, làm sao có tác phẩm. Nói chi tới tác phẩm ngang
tầm thế giới.
Từ thế kỷ 18, Nguyễn Du lấy một tiểu
phẩm tiểu thuyết hạng xoàng của Trung quốc viết lại thành thơ ra
Truyện Kiều trở nên đại phẩm ngang tầm thế giới. Nhân dân các giới từ
nông dân ra thành thị, từ công nhân đến học sinh, sinh viên, trí thức ai
cũng ngâm nga, làu thuộc, ngưỡng mộ.
Nguyễn Du đâu cần sự chỉ bảo của Bài nói
chuyện Diên An của Mao, cũng chẳng cần Đề cương Văn hóa của Trường
Chinh. Nguyễn Du một mình một cõi dựng nên tuyệt phẩm lưu danh. Trong
khi hai ông “Thầy đời” Mao và Trương Chinh chẳng làm ra văn hoá, cũng chẳng có
tác phẩm gì xứng danh thiên cổ.
MỘT LỜI ƯỚC
Ngày Chủ biên Gió O nhờ tôi vẽ tranh bìa
cho Tuyển tập 20 Năm Gió O Nắn Nét mà qúy vị và các bạn đang cầm
trong tay. Tôi nghĩ ngay đến chữ Gió của O Gió.
Gió là thinh không bay lượn. Gió lang thang,
gió di chuyển, lực động thổi tung mọi trạng thái ù lì, mệt mỏi,
chán chường. Gió dựng chống chiều cao của trời, chiều rộng của mây.
Gió làm lao xao rừng, gợn sóng nghìn mặt sông biển.
Chợt nhớ một truyện ngắn của Bình Nguyên
Lộc tôi đọc thập niên 50 ở Saigon. Nay đã quên cốt truyện. Nhưng nhớ
tên truyện thu hút lạ : “Nhốt gió”.
Tôi lấy bút lông chấm mực tàu vẽ một
vòng tròn muôn thưở, đặt chữ Gió vào trong, như gìn giữ một bảo vật
khó nắm. Vòng tròn viên mãn hình dung mặt trăng. Biểu tượng tính
không (Sūnyāta) của nền triết học Bất nhị Ấn.
Cũng là con số không (zéro), căn bản của mọi con số.
Khi Gió đứng trên đầu những con số, nó
điều hành gạt bỏ mọi luân hiểm đến từ cái giả hữu tham
lam, vô vọng của trần gian.
Dưới mặt trăng chân lý, tôi vẽ khuôn hình
chữ nhật. Đặt vào đấy một trào lưu báo chí khởi từ đầu thế kỷ XX
đòi hỏi tự do xã hội, tự do sáng tác, tự do kiến thức, tự do tư
tưởng, tự do dân tộc, đòi hỏi nữ quyền… Qua những tạp chí tiêu biểu
như Sông Hương (1936) của Phan Khôi, Đông Dương tạp
chí (1913) của Nguyễn Văn Vĩnh, Phụ nữ Tân văn (1934)
của Nguyễn Đức Nhuận, Tiếng Dân (1927) của Huỳnh Thúc
Kháng, Phong Hoá, Ngày Nay (1932) của Tự lực Văn đoàn,
rồi Nhân Văn Giai Phẩm (1956), v.v…
Một trào lưu đã thành phong triều chuyển
động, khai phóng, mà ngày nay Gió O thừa kế.
Một vòng tròn với một hình vuông tượng
hình cho ngọn nến sinh nhật, thắp bằng ngọn lửa Gió O. Nhưng cũng
hình tượng một bình mực tím thưở học trò.
Nay tôi trông chờ các bạn văn nghệ sĩ hội
họp quanh Gió O trong ngày kỷ niệm tuổi xanh 20 tại một khuôn viên đại
học Berkeley rộng thinh thơ mộng, sẽ chấm bút vào bình mực này, đưa
sức sáng tạo và sáng tác của các bạn làm nên tác phẩm mới ngang
tầm thế giới, đuổi xua thời mê ám điêu linh thổi qua trời xanh ta đám
mây đen bão tố suốt bảy mươi sáu năm ròng.
Đuổi xua vào nghĩa địa một nền Văn học
Tố Khổ nhưng không Cứu Khổ.
Thi Vũ Võ Văn Ái