Đã đưa trên blog cá nhân VTN
mười năm trước 12 -10 - 2014
*******
Sau Cải
cách ruộng đất, nhiều nông dân được chia quả thực, có khi là cả một phần
những cơ ngơi nhà cửa và những đồng đất bờ xôi ruộng mật của địa chủ.
Nhưng nhiều người
trong họ, nhất là những người được chia đậm, lại là những người chưa có của cải
bao giờ, họ không biết làm chủ.
Không những dốt
nát kém cỏi, không biết làm cho của cải sinh sôi nẩy nở, mà có khi một số người
này còn rơi vào cảnh rượu chè cờ bạc, đến mức bán cả nhà cửa và đẩy vợ con vào
cảnh nghèo khó như cũ.
Nếu sự phá sản
nói trên không phải là phổ biến đi chăng nữa (?), thì có điều chắc là những
người mới phất lên này không sử dụng nhà cửa ruộng đồng -- mà họ được chia ---
một cách hiệu quả, như những người đã đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có được những
tài sản ấy.
Với những người chủ của Hà Nội
sau 10-10-54, cũng vậy.
Trong đoàn quân tiếp quản thủ đô 60 năm trước, có nhiều chiến sĩ là
con em của Hà Nội. Từ 10-10-54, người chủ tịch Ủy ban hành chính cũ
của Hà Nội 1945-1946 là Trần Duy Hưng lại được giao giữ chức vụ cũ.
Thế nhưng,
đó chỉ là xét về bề ngoài. Trung đoàn thủ đô không còn mấy người là dân cũ Hà
Nội, mà có còn chăng nữa, họ đã bị nông dân hóa.
Còn với bác
sĩ Trần Duy Hưng. Sự tồn tại của ông có nhiều chỗ chỉ là trên danh nghĩa, bởi toàn
bộ bộ máy dưới quyền ông và nhất là cái tinh thần chỉ đạo hoạt động của bộ
máy ấy so với thời gian 1945 -46
đã hoàn toàn thay đổi.
TỪ CÁC GHI NHẬN CỦA PH. PAPIN VÀ
NGUYỄN HUY TƯỞNG
Dịp kỷ niệm ngàn
năm Thăng Long 2010, nhiều tài liệu nghiên cứu về Hà Nội của người nước ngoài
đã được dịch ra tiếng Việt. Chính đọc những cuốn sách ấy người ta lại hiểu về
Hà Nội có phần khác và có phần hơn tất cả các sách vở mà các nhà nghiên cứu
Việt Nam đã viết.
Lịch sử Hà Nội của nhà nghiên cứu Philippe
Papin là một trường hợp như thế. Mô tả lại việc quản lý đời sống Hà Nội sau
10-10-54, nhà nghiên cứu này viết:
“Thành phố giờ đây được điều hành theo tư
tưởng của những cán bộ lãnh đạo từ chiến khu trở về. Họ không được người Hà Nội
nể phục, vì lẽ người dân ở đây quá hiểu về con đường đi tới cái vai quản lý của
các quan chức này. Họ vốn chỉ là những nông dân thô lỗ được thăng quan
tiến chức quá nhanh, những quan chức nhỏ nóng tính dốt nát song lại ưa sử dụng những
ngôn từ to tát, những khái niệm mác xít chưa thuần thục.”
(Philippe Papin Lịch sử Hà Nội, Mạc Thu Hương dịch từ tiếng
Pháp, nhà xuất bản Mỹ thuật 2010, trang 293-294 )
Nguyễn Huy Tưởng vốn là một nhà văn sinh ra và lớn
lên ở Hà Nội, sau 10-1954 lại trở về với tư cách chủ nhân của cái
thành phố thân yêu.
Ngay
từ 1956 - 57, trong nhật ký của mình, tác giả Sống mãi với Thủ đô đã ghi
lại những hiện tượng báo trước một tình trạng giống như một sự băng hoại lâu dài. Đây cũng là
những bằng chứng xác nhận cho nhận xét tổng quát nói trên Ph.Papin.
--(21-6-1956) Mậu dịch tham ô lãng phí. Sữa để với muối,
hỏng hết. Bơ để mốc. Máy gửi đi thiếu các bộ phận. Peniciline hỏng hàng loạt,
có đến triệu viên.
(Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng bản của nhà Thanh
Niên 2006, ba tập, tập 3, Tr 106 )
-- (11-9-1956) Đại biểu khu phố Hà Nội là một con sen. Đi
vận động các nhà làm sao. Than ôi! Thành phần chủ nghĩa, cứ nhắm mắt mà làm.
Tư sản làm tốt không dùng. Sợ đề cao tư sản
(sđd Tr 138)
---(13-4-1957) Cái láo xược của cơ quan Bưu điện Bờ
Hồ. Chẳng coi trọng gì quần chúng cả. Guichet Bưu điện máy bay sáng 11-4
đề biển Vì bận học nên nghỉ từ 7 giờ đến 9 giờ. Và sáng hôm nay,
khi khách đã đứng đầy ngoài cửa, bọn công nhân viên vẫn ngồi thảo luận, mặc kệ
khách. Một người thấy chướng quá, bảo, họ vẫn cứ ngồi thảo luận (như trên tr
241).
TÍNH NGHIỆP DƯ
THÀNH XU
THẾ KÉO DÀI
Tạp chí Nghiên cứu Huế --- do nhà sử học Nguyễn Hữu
Châu Phan chủ trương --- tập một 1999 có đưa lại một tập bài giảng của một
chuyên gia người Anh ông Patrick J. Honey trên BBC từ 1961; tập bài giảng này
có cái tên khá dài Việt Nam vào thế kỷ 19, qua các hồi
ký của John White John Crawfurd George Gibson
do Trương Ngọc Phú dịch ra tiếng Việt
Ở tr 220 cuốn tạp chí này, tôi đọc được một nhận xét tổng quát
của Crawfurd về Nguyễn Ánh Gia Long thế kỷ XIX: "tài cán của nhà vua
thích hợp cho việc chiếm lại đất nước hơn là việc cai trị đất
nước."
Gia
Long là nhân vật lịch sử quan trọng bị nền sử học chính thống ở miền Bắc sau
1945 bôi nhọ một cách thậm tệ, đến mức không thể xấu hơn.
Thế nhưng
qua cách miêu tả như trên, hóa ra -- trong cái sứ mạng chủ yếu làm nên tính
chính đáng của quyền lực trong lịch sử -- giữa Gia Long và các bậc tiền bối ở
các thế kỷ trước cũng như chúng ta hôm nay, có sự giống nhau rõ rệt, đến mức từ
đó có thể khái quát nên thành một đặc điểm chung của những người quản lý xã hội
Việt.
Từ những
quan sát của Nguyễn Huy Tưởng nêu ở trên, tôi thử khái quát về
cách quản lý của chúng ta đối với Hà Nội những năm ấy.
-- Có của trong tay cũng không biết giữ. Trao cho những người chỉ quen trông nom và làm chủ mấy cái chợ quê "dăm miếng cau khô mấy lọ phẩm hồng" (thơ Hoàng Cầm) ra quản lý một thành phố hiện đại.
-- Mang cách sống cách làm việc của
cuộc chiến tranh nhân dân dầm dề chậm chạp vào việc quản lý cuộc sống
năng động trong hòa bình. Phá vỡ nhịp điệu bình thường của một thành phố hiện
đại.
-- Không quan niệm rằng quản lý là
một công việc cần phải học hỏi, và phải có trình độ như thế nào đó mới làm nổi.
Các loại công việc liên quan đến đời sống hiện đại muôn vàn phức tạp bị đặt vào
tay những người chỉ hiểu đơn giản về xã hội.
Cần nói thêm rằng cái chuyện nghiệp
dư chúng ta nói ở đây tự nhiên hoành hành và sống khá dai dẳng đến vậy bởi
lẽ:
-- nó là cái tinh thần chi phối từ đào tạo con người, sử dụng nhân tài,
tổ chức guồng máy nói chung.
-- nó cũng là nguyên tắc có mặt trên tất cả mọi phương diện đời sống, cả
trong sản xuất, kinh doanh lẫn trong sáng tác văn hóa nghệ thuật và các hoạt
động tinh thần.
-- nó được áp dụng ở tất cả các địa phương miền Bắc lúc ấy và Hà Nội
không được coi là ngoại lệ.
Sở dĩ một người như Nguyễn HuyTưởng không chịu được vì nó xa lạ những nguyên tắc chi phối xã hội hiện đại mà ông tiếp nhận được từ văn hóa Pháp rộng ra là văn hóa phương Tây.
Nhưng
rồi, cũng như mọi người dân Hà Nội khác, ông phải chấp nhận.
Nguyễn Huy Tưởng đã qua đời từ
1960, nhưng nếu sống đến nay, ông chỉ chứng kiến sự thắng thế của những nguyên
tắc quản lý mà ông phê phán, cũng có nghĩa xa lạ với tinh thần hiện đại, khiến
cho Hà Nội có những nét trở lại như các thành phố quê mùa thời trung đại.
MỘT CÁCH HIỂU VỀ DÂN CHỦ
CÒN Ở TÌNH TRẠNG DUNG TỤC
Nó đề cập tới nhân tố hàng đầu khiến cho Hà Nội từ một thành phố thanh lịch văn
minh trở thành một thành phố nham nhở nhếch nhác, một thành phố tầm thường và
đi đầu trong việc học đòi ăn chơi như chúng tôi đã nói.
Người ta có thể bảo sự tức giận của
Nguyễn Huy Tưởng là hoàn toàn có lý nếu đứng trên bình diện cảm tính – nghĩa là
một người có lương tri bình thường cũng dễ cảm thấy.
Nhưng điều này cũng đúng nếu dùng
đầu óc để suy đoán và truy tìm lại sách vở kim cổ để có chỗ dựa.
NHỮNG
CẢNH BÁO
ĐÃ CÓ TỪ … TRIẾT HỌC HY LẠP
CỔ ĐẠI
Hai chữ con sen mà Nguyễn Huy Tưởng đã dùng có thể được hiểu
là những người không có trình độ hiểu biết, những người mà ở Hà Nội sau 1954
được gọi là dân nghèo thành thị, hoặc một chữ sang hơn, nhân dân lao động.
Trong ý tưởng của tác giả Sống mãi với
Thủ đô, lớp người này mãi mãi chỉ là người cần được hướng dẫn giáo dục lãnh
đạo; nếu được sử dụng vào việc quản lý họ sẽ trở thành một thứ nghiệp dư xoàng
xĩnh.
Nhưng việc đề cao nhân dân lao động, đưa
họ vào hàng ngũ những người cầm quyền, thật ra lại là một nguyên tắc bao trùm
của xã hội hôm nay.
Ý chúng tôi muốn nói tới thể chế dân chủ mà
chúng ta tự hào.
Trong cái vẻ cụ thể của nội dung khái
niệm chứ không phải chữ nghĩa bề ngoài, nguyên tắc dân chủ ở ta bao gồm cả hai
khía cạnh:
Một là tổ chức những cuộc bầu cứ phổ
thông đầu phiếu một cách hình thức.
Và hai là đưa những người thuộc về nhân
dân lao động vào bộ máy quản lý.
Tôi thuộc vào thế hệ học sinh trung học ở Hà
Nội sau 1954, nên cố nhiên không biết triết lý Hy La là gì. Thỉnh thoảng có
thấy nói lướt qua thì nghe như ở đó toàn bàn về những điều trừu tượng duy tâm
duy vật chả có gì thiết thực.
Lớn lên đi làm báo làm xuất bản, cố
nhiên không bao giờ có dịp quay về, và giờ đây, lại càng không đủ trình độ để
đọc vào nguyên bản.
Chỉ còn có cách đọc qua trung gian.
May mà loại sách này ở miền Nam
trước kia không thiếu.
Điều thú vị tôi phát hiện ra là mấy ông như Platon lại nói nhiều ý dính ngay
đến điều chúng ta đang quan tâm.
Trong cuốn Câu chuyện triết học của Will Durant, bản dịch của Trí Hải và Bửu Đích, in ra, tức tái bản, ở nxb Văn hóa thông tin 2008, ở các trang 29-30, người ta có thể đọc được những lời dẫn giải sau:
Về sự tham gia của đám đông vào việc quản lý xã hội
Khi chính thể dân chủ đến, kẻ nghèo chiến thắng
đối thủ của họ, tàn sát một số, trục xuất một số, và cho tất cả mọi người tự do
bình đẳng.
Nhưng chính thể dân chủ tự phá hủy vì quá dân chủ.
Họ -- đây muốn chỉ những người đề xuất
chính thể dân chủ -- muốn rằng tất cả mọi người đều có quyền tham gia chính phủ
và ấn định đường lối quốc gia.
Sau khi bảo rằng mới xem qua thì
việc bầu cử phổ thông – tức là cho tất cả mọi người tham gia vào việc lựa chọn
các thành viên của bộ máy quyền lực --, là một lý tưởng quá ư tốt đẹp, W.
Durant cài ngay vào đấy cái ý của Platon cảnh báo rằng thực ra việc đó vô cùng
nguy hiểm. Vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài
giỏi ra cầm quyền và tìm ra đường lối thích hợp nhất.
“Dân chúng không có kiến thức,
họ chỉ lặp lại những điều nhà cầm quyền nói với họ”.
Phát triển ý của
Platon, Durant cũng đi guốc vào bụng các nhà chính trị khi chỉ rõ cái chiến
thuật xoàng xĩnh: muốn ủng hộ hoặc đả phá một học thuyết, chỉ cần soạn những vở
kịch [hiểu theo nghĩa rộng những tác phẩm văn nghệ] trong đó những học thuyết
kia được đem ra chỉ trích hoặc cổ võ, rồi trình bày trước công chúng.
Thế là tha hồ dẫn dắt họ.
….
Tổng kết về chuyện bầu bán, W.
Durant viết:
Dân chúng rất ưa những lời nịnh
hót; những kẻ khôn ngoan và vô liêm sỉ, tự gán cho mình cái nhãn hiệu bảo vệ
dân chúng [nói lên tiếng nói dân chúng] thường được mở ra cả cơ hội lớn để nắm
quyền lực tối cao.
Chính Platon đã tỏ ra kinh ngạc về
sự điên rồ khi giao cho quần chúng [đang còn là đám đông những kẻ chưa
trưởng thành] trọng trách chọn người cầm giềng mối quốc gia.
VỀ SỰ CÓ MẶT CỦA MỘT SỐ ĐẠI BIỂU ĐÁM
ĐÔNG
TRONG BỘ MÁY QUYỀN LỰC
Đây mới là chỗ liên quan tới những con
sen của Nguyễn Huy Tưởng.
Theo W. Durant, Platon phàn nàn rằng đối với
một việc nhỏ như việc đóng giày, may quần áo, người ta còn phải lựa chọn những
người thợ chuyên môn, tại sao trong lĩnh vực chính trị là một lĩnh vực có tầm
ảnh hưởng rộng lớn, người ta có thể tin rằng bất cứ kẻ nào chiếm được nhiều
phiếu [hậu quả của việc được bảo kê hoặc giỏi tiếp thị trước công chúng] đều
biết cách trị nước an dân.
Khi chúng ta bị bệnh, chúng ta không kiếm
những thày thuốc đẹp trai hoặc những thày thuốc dẻo mồm khoe khoang mà mời bằng
được những y sĩ lành nghề đã trải qua nhiều năm đèn sách và học.
Thế thì tại sao khi quốc gia lâm nguy chúng ta không tìm tới những người khôn ngoan nhất đức hạnh nhất?
Rút lại, theo W.Durant, ý của Platon là:
Để cho dân chúng cầm quyền không khác gì
để cho con thuyền quốc gia lướt trong vùng bão tố, miệng lưỡi bọn chính trị gia
càng làm mặt nước nổi sóng và có thể lật ngược cả hướng đi của con thuyền.
Không chóng thì chầy, một chính thể như
vậy sẽ rơi vào con đường độc tài. Ngược lại nếu tìm ra mọi phương pháp để
loại bỏ bọn bất tài và bịp bợm ra khỏi bộ máy quyền lực cũng Chọn lựa cho được những kẻ tài cao
đức trọng.
Đó là vấn đề chính của triết lý chính trị.
TRỞ LẠI VỚI CHUYỆN HÀ NỘI
Dưới dạng đối thoại, chúng ta sẽ bàn tiếp về câu chuyện “những con sen trở
thành đại biểu khu phố“, ở khía cạnh sự có mặt của nhân dân lao động trong
việc quản lý các thành phố hiện đại.
Một đoạn đối thoại
--Nguyễn Huy Tưởng
chỉ nói về một hai trường hợp cá biệt. Anh đẩy lên quá đáng và đưa ra những
khái quát non.
-- Không đúng. Sau 30-4, vừa vào Sài Gòn mấy ngày, Nguyễn Khải đã kể với tôi một chuyện đang bàn ở gia đình ông. Bà chị họ của ông than phiền nhiều lần rằng giải phóng sao mà kỳ quá, sao mấy ông mới vào lại đưa con bé giúp việc nhà bà ra làm tổ trưởng dân phố, nó có biết gì đâu.…
-- Sau đó, họ đã đi học, đã có bằng cấp.
-- Đi học Bổ túc công nông, năm lên ba lớp chứ gì? Rồi thời nay là lấy bằng tiến sĩ bằng cách cho người đi học thuê chứ gì?
-- Thế tức là anh cho rằng nhân dân lao động không thể
tham gia vào việc quản lý thành phố? Cũng như Hà Nội thứ thiệt phải là người đã
sinh sống ở đây nhiều đời chứ không thể là dân các tỉnh đổ về?
-- Không đúng, tôi không nói thế. Bất cứ ai nghiên cứu lịch
sử Hà Nội cũng biết rằng ngày trước 1945, Hà Nội luôn luôn được bổ sung bằng
dân nhập cư. Nhưng đó là những người ưu tú của các địa phương, những người thợ giỏi,
những người buôn bán giỏi, những học trò xuất sắc từng đỗ đạt có thứ hạng cao
trong các cuộc thi nghiêm chỉnh.
Tôi không đặt vấn đề xuất thân của con người. Tôi chỉ muốn đánh giá con người
bằng
nhân cách và trình độ nghề nghiệp của họ. Quản lý xã hội cũng là nghề nghiệp. Ở
đây không có chỗ cho đám người nghiệp dư.
--
Xin nói
rõ hơn về cái ý cuối cùng này.
Thời xưa ấy, cái loại người tay
nghề loàng xoàng, những kẻ lười biếng và dốt nát không bao giờ tìm được chỗ
đứng ở Hà Nội.
Cũng tương tự như vậy, cách tổ chức
bộ máy quan lại của Trung Hoa với Việt Nam xưa là sử dụng những cuộc thi để
tuyển chọn nhân tài.
Xưa còn có lối cấm đoán không cho
con nhà hạ lưu đi thi.
Sau cái lệ ấy đã bỏ.
Người ta bình đẳng với nhau trước các kỳ thi,
và khi đã qua khảo hạch, tức là người ta đã trở thành kẻ trí thức, sống theo lễ
nghĩa biết ăn biết ở. Người ta không còn là dân “chân đất mắt toét” “ba xoa hai
đập”, giống như số đông những anh cốt cán trong cải cách, lấy việc hận thù ghen
ghét những người ưu tú, tố điêu và nịnh bợ làm đường tiến thân.
Đấy là nói chung về chỗ khác nhau giữa việc
tuyển lựa quan chức thời nay và thời xưa, bao gồm cả thời phong kiến lẫn thời
Pháp thuộc.
Riêng với quan chức Hà Nội, thì ngay từ thời
xưa, người ta phải có hiểu biết thế nào là đô thị, và người đô thị, vai trò của
các thành thị trong sự phát triển kinh tế và văn hóa của quốc gia xứ sở. Chỉ
đến thời đại ta mới có những người làm dân thường ở đô thị không xong, đã
nhẩy lên làm quan chức, hành hạ người khác.