Bài của nhà phê bình Thái Phan Vàng Anh –
--
Nguồn
***
Vanvn- “Chiến tranh không được trả giá
trong thời chiến. Hóa đơn sẽ đến sau đó” (Benjamin Franklin). Xót xa thay, trong nhiều trường
hợp, phụ nữ là những người phải trả hóa đơn. “Lên án cái phi nhân
của chiến tranh từ những bi kịch nữ giới, các nhà văn Việt Nam hậu
chiến đã tô đậm nỗi đau kéo dài của con người, ngay cả khi chiến
tranh đã đi qua.
Có thể
nói, đã có một lịch sử của những
liên đới giữa phụ nữ và chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam thời hậu chiến,
một lịch sử không phải của sự kiện, chiến công, của những người anh hùng
mà của những đau thương mất mát, thông qua những số phận phụ nữ.
---
Chiến tranh thường gắn liền với nam giới, liên
quan đến “khí lực nam nhi” và “sự thống trị của nam giới” trên nhiều lĩnh vực,
trong đó có “khả năng chiến đấu và thực thi bạo lực” (P. Bourdieu).
Phụ nữ hiếm khi là nhân vật trung tâm trong
các tác phẩm viết về chiến tranh, và bi kịch của phụ nữ ít khi được nhìn từ góc
độ giới tính. Vì vậy, tuy văn học đề tài chiến tranh chiếm một vị trí đặc biệt
trong nền văn học Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, song phải từ sau năm 1975,
bước vào thời kì hậu chiến, văn học đề tài chiến tranh bắt đầu phát triển theo
một hướng mới.
Mất mát và những bi kịch chiến tranh được chú
ý hơn. Phụ nữ cùng những sang chấn cả thể xác lẫn tinh thần trở thành đối tượng
trung tâm của nhiều tác phẩm.
1. Bi kịch kép của phụ nữ trong và sau chiến tranh
Không phải ngẫu nhiên mà “Chiến tranh
không có một gương mặt phụ nữ” của Svetlana Alexievich đã đạt giải
Nobel năm 2015, dù tác phẩm của bà không phải là văn chương hư cấu. Bởi, không
cần hư cấu, những chấn thương chiến tranh mà phụ nữ phải chịu đựng có khi còn
vượt xa khả năng tưởng tượng của độc giả, của nhà văn.
Phải chăng, quá nhiều gương mặt nữ giới với
những chấn thương chiến tranh đã khiến mỗi người trong số họ không còn diện mạo
riêng, khiến chiến tranh không còn mang “một” khuôn mặt phụ nữ nào cụ thể?
Hay phải chăng, bởi những tàn phá của chiến
tranh lên thân thể và số phận nữ giới, chiến tranh đã không còn mang tính nữ,
đã bào mòn, hủy diệt nữ tính ở những người phụ nữ bị buộc tham dự vào cuộc
chiến?
Có nhiều cách diễn giải nhan đề tác phẩm của
Svetlana Alexievich. Tuy vậy, bất chấp các cách “đọc sai” của người đọc, một sự
thật không thể chối cãi là có quá nhiều bi kịch của phụ nữ trong và sau chiến
tranh cần phải được lí giải từ cái nhìn của nữ giới. Và liệu bi kịch mà phụ nữ
phải chịu đựng bởi chiến tranh có thật sự bình đẳng với nam giới?
Bằng
cách khơi sâu các bi kịch giới của phụ nữ trong và sau chiến tranh, văn xuôi
Việt Nam thời hậu chiến đã chỉ ra một khuôn mặt của nữ giới của chiến tranh.
So với nam giới, bi kịch của phụ nữ trong và
sau chiến tranh là bi kịch kép.
Một mặt
họ vừa là nạn nhân trực tiếp của chiến tranh, một mặt họ vừa chịu đựng những
nỗi đau gián tiếp khi những người đàn ông của họ bị chiến tranh hủy diệt và tàn
phá.
Họ vừa là những người lính phải đối diện với
chết chóc, thương vong và vô vàn những câu chuyện khốc liệt của chiến trường (Họ
đã trở thành đàn ông như thế – Phạm Ngọc Tiến, Người sót lại
của rừng cười – Võ Thị Hảo).
Họ vừa là những người đàn bà “vọng phu”, đánh
mất tuổi thanh xuân hay mất khả năng làm vợ, làm mẹ (Người đàn bà trên đảo –
Hồ Anh Thái, Xưa kia chị đẹp nhất làng – Tạ Duy Anh).
Có chấn thương thể xác của những của những
người phụ nữ tật nguyền, mất trinh tiết hay mất đi vẻ đẹp nữ giới bởi chiến
tranh (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh, Người ở bến sông
Châu – Sương Nguyệt Minh).
Và khó
liền sẹo hơn những vết thương trên thân thể là những chấn thương tinh thần gắn
với những cô đơn, mặc cảm, hoảng loạn trong và nhất là sau khiến tranh, khiến
những người phụ nữ không bao giờ còn được là mình với những vẹn nguyên của giới
tính (Hai người đàn bà xóm Trại – Nguyễn Quang Thiều, Tiếng
lục lạc – Nguyễn Quang Lập).
Trong văn xuôi hậu chiến Việt Nam, bi kịch nữ
giới không chỉ hiện diện trong văn chương của những nhà văn đã từng kinh qua
chiến trận/có những trải nghiệm về chiến tranh, mà còn xuất hiện đậm đặc ở tác
phẩm của những thế hệ nhà văn chỉ biết đến chiến tranh qua những câu chuyện kể.
Chấn thương nữ giới cũng không chỉ là “chuyện”
được kể từ điểm nhìn nam giới, mà đặc biệt còn được “viết lại” bởi những đồng
cảm giới tính đặc biệt của các nhà văn nữ.
Có thể nói, đã có một lịch sử chiến tranh với
những chấn thương nữ giới qua các tác phẩm của Bảo Ninh, Hồ Anh Thái, Dương
Hướng, Tạ Duy Anh, Phạm Ngọc Tiến, Sương Nguyệt Minh, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn
Quang Thiều hay Võ Thị Hảo, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân Hà…
2. Những chấn thương thể xác và tinh thần của nữ giới
Chiến tranh không quan tâm đến giới tính của
đối tượng bị nó hủy diệt. Đau khổ mà chiến tranh gieo rắc cho con người không
phân biệt chủng tộc, quốc gia, vùng miền, tuổi tác, chức vụ, trình độ… Tuy vậy,
từ góc nhìn giới tính, phụ nữ vẫn có những bi kịch, những ám ảnh sâu sắc, đau
đớn, khó nguôi ngoai hơn so với nam giới, đối tượng ít nhiều xem chiến tranh
như một “trò chơi” và dễ bị cuốn vào trò chơi của bạo lực, của thù hận, thắng
thua, được mất.
Một trong những bi kịch cơ bản của nữ giới
trong những tổn thương thể xác là mất vẻ đẹp thân thể. Bởi lẽ, khả năng hạnh
phúc và làm lại cuộc đời với cơ thể tàn tật của phụ nữ thường khó hơn nhiều lần
so với nam giới.
Thảo đã đánh mất mối tình thơ mộng của mình
chỉ vì không thể chịu đựng ánh nhìn tội nghiệp, thương hại của người yêu trước
vẻ già nua, khắc khổ của chị khi ra khỏi chiến tranh (Người sót lại của rừng
cười – Võ Thị Hảo).
Mây không chỉ mất Thành, mà mất cả một cuộc
đời làm vợ, làm mẹ bình thường khi tiếp tục cuộc sống sau chiến tranh với chiếc
nạng gỗ (Người ở bến sông Châu -Sương Nguyệt Minh).
Mất trinh tiết vì những xâm hại cưỡng bức cũng
là một chấn thương thể xác đớn đau của nữ giới. Đây là lí do khiến nhiều cô gái
đã tự chọn cái chết để bảo vệ thân thể nữ giới, không để chiến tranh làm hoen
ố, như các đồng đội của Thảo khi dành cho mình viên đạn cuối cùng trong cuộc
đối đầu không cân sức với quân địch (Người sót lại của rừng cười – Võ
Thị Hảo).
Ở một khía cạnh khác, “trinh trắng” tuyệt đối,
hay không được thỏa mãn những khát khao giới tính, cũng là một chấn thương đặc
biệt của nữ giới mà chiến tranh đã tàn nhẫn chụp xuống cuộc đời họ.
Thư trong truyện ngắn Trinh nguyên (Hàn
Nguyệt) chỉ thực sự làm vợ đúng hai ngày rồi mất chồng mãi mãi. Trớ trêu là hai
ngày được gần chồng ấy chị lại “đến tháng”, để rồi mãi mãi là người vợ trinh
trắng khi người chồng đã không trở về sau chiến tranh.
Tổn thương thân thể là bi kịch mà nhiều phụ nữ
phải gánh chịu bởi chiến tranh. Song chấn thương tinh thần chứ mới là căn
nguyên của những đau khổ, tuyệt vọng khôn nguôi ở nữ giới.
Đằng sau dáng đi tập tễnh của Mây là mặc cảm
tàn phế khiến cô khước từ Quang, người kĩ sư mà năm xưa, ở Trường Sơn, cô đã
từng che chắn và đổi mạng sống cho anh bằng đôi chân tàn tật của mình (Người
ở bến sông Châu – Sương Nguyệt Minh).
May mắn sống sót và lành lặn trở về sau cuộc
chiến, song Thảo trong Người sót lại của rừng cười đã không còn có thể sống
thanh thản và hồn nhiên.
Cái chết của đồng đội, những kí ức khủng khiếp
ở rừng cười, căn bệnh hysteria bất chợt bùng phát khiến cô không thể đón nhận
tình yêu mang nặng tính trách nhiệm của người tình cũ.
Chấn thương không thể chịu đựng nổi với người
phụ nữ trong truyện Họ đã trở thành đàn ông của Phạm Ngọc Tiến
là khi chị nhận ra nhiều người lính trẻ đã chết mà chưa được một lần thật sự
trở thành đàn ông, khi người chị yêu thương cũng đã chết như một chàng trai
trinh bạch; và cả chị, khao khát dâng hiến cho người mình yêu thương đã chẳng
thể thực hiện khiến những giữ gìn thân thể trở nên vô nghĩa và cay đắng.
Với chấn thương ấy, đạn bom, ốm sốt hay những
thiếu thốn, đơn độc khi mang thai trong sự dị nghị của đồng đội, sau tất cả, đã
không còn có thể quật ngã chị. Nỗi đau lên đến cùng cực được biến thành sức
mạnh, đủ để chị bất chấp luận lý thông thường và định kiến của xã hội để giúp
những chàng lính trẻ trở thành đàn ông trước khi họ đi vào cõi chết.
Không gây ra những chấn động dữ dội song chờ
đợi, cô đơn cũng là những chấn thương bào mòn tâm hồn, thể xác nữ giới.
Chị Túc trong Xưa kia chị đẹp nhất
làng đã dành cả tuổi xuân chỉ để đợi chờ. Nhà văn Tạ Duy Anh tô đậm
nỗi đợi chờ lê thê của chị Túc bằng cách tạo các dấu mốc thời gian theo chiều
tăng tiến:
“Chiến tranh thò bàn tay vào lôi tuột đi các
chàng trai mới chớm tuổi mười tám… Chị Túc sang tuổi hai mươi rồi hai lăm lúc
nào chị không nhớ”;
“Chị Túc bước sang tuổi ba lăm đúng vào năm
hàng triệu người cười, khóc vì mừng tủi. Cùng với niềm vui chiến thắng những
giọt nước mắt của chị Túc lẫn cả vào nỗi tủi hờn của tuổi ba lăm!”…
Chị cứ
chờ, chờ mãi. Rồi chị cũng có con, con của một người thương binh khác, người
cũng nhanh chóng ra đi vì những vết thương chiến tranh, khiến chị tiếp tục sống
một cuộc đời câm lặng với biệt danh mới: “chị Túc chửa hoang”, và những vết
thương không nguôi ngoai. Chẳng ai nhớ đến việc “xưa kia chị đẹp nhất làng”.
Diễn ngôn nữ giới và gương mặt phụ nữ của chiến tranh
Xoáy sâu vào những bi kịch nữ giới, miêu tả
chiến tranh từ điểm nhìn và xúc cảm của phụ nữ, văn xuôi thời kì hậu chiến đã
đem lại một diện mạo mới cho văn học đề tài chiến tranh ở Việt Nam. Đáng chú ý
là từ sớm, các nhà văn nam, chứ không phải là các nhà văn nữ, đã đề cập vấn đề
quyền làm mẹ của phụ nữ, thân phận những người vợ lính.
Với Người đàn bà trên đảo, Hồ Anh
Thái đã kể về về số phận của ba mươi tám phụ nữ tuổi từ hăm mốt đến bốn mươi
tư, vốn là những cựu chiến binh được gửi đến làm việc trên một hòn đảo vắng,
không dân cư, với chỉ hai người đàn ông hầu như đã tiêu tan hết khí lực nam
giới.
Thấu hiểu với những người phụ nữ đã chịu nhiều
thiệt thòi bởi chiến tranh, Hồ Anh Thái đã để họ được tự do tìm kiếm hạnh phúc
và thỏa mãn bản năng nữ giới, bản năng làm mẹ khi đề cập chuyện nhiều người phụ
nữ tự tìm đến bất cứ người đàn ông nào có thể gặp để “kiếm con” hay vượt rừng
để đến với người tình mà nhiều khi phải trả giá bằng cái chết.
Chiến tranh đã cướp mất từ những người phụ nữ
này tình yêu, thanh xuân, khả năng làm vợ. Nhưng họ đã không để quá khứ và
những nhọc nhằn hiện tại cướp nốt quyền làm mẹ của mình.
Từ điểm nhìn “nữ tính”, Nguyễn Quang Thiều
cũng đã lột tả đến tận cùng nỗi đau đàn bà khi khát khao làm mẹ chỉ là một ảo
vọng, một giấc mơ.
Giấc mơ lặp lại hằng đêm của Mật và Ân cũng có
thể là giấc mơ của rất nhiều người đàn bà làm vợ lính: “Mấy hôm trước em cũng
nằm mơ. Em thấy anh ấy về và (…) em có mang. Lúc tỉnh dậy sờ bụng cứ thấy khang
khác (…) Giá có đứa con thì họ đi đến bao giờ cũng được’’.
Giấc mơ
lặp lại hằng đêm và tuổi xuân của họ cũng nhạt phai dần.
“Trong mơ có tiếng gà gáy và tiếng gõ cửa gấp
gáp, có ngan ngát mùi lá dong xanh và hương ấm đậm của gạo nếp đã vo sạch”;
“Trong
mơ chị vẫn thấy người lính trở về. Và tỉnh giấc vẫn rụt rè đặt tay lên bụng
mình và thấy khang khác” (Hai người đàn
bà xóm Trại).
Dường
như, đã có một chiến tranh khác được đan dệt bằng những chấn thương của nữ
giới, một chiến tranh mang khuôn mặt phụ nữ trong văn xuôi hậu chiến.
Bằng những thấu hiểu sâu sắc, nhiều nhà văn đã
dựng lên một diện mạo khác của chiến tranh từ những chấn thương nữ giới.
Tuy vậy, nói bằng tiếng nói của nữ giới, các
cây bút nữ vẫn tỏ ra có nhiều ưu thế trong việc dựng lại một lịch sử chiến
tranh gắn với kí ức và cảm xúc của phụ nữ, vẽ nên một diện mạo nữ tính của
chiến tranh mà Võ Thị Hảo là một trong những nhà văn tiêu biểu.
Trong Người sót lại của rừng cười,
chị đã miêu tả nhiều khoảnh khắc nữ tính mà chiến tranh dẫu có vô cùng khốc
liệt vẫn không thể triệt tiêu hết ở những người đàn bà cầm súng.
Bốn cô gái trẻ măng có mái tóc chỉ còn là một
dúm xơ xác ở kho quân nhu đã vô cùng mừng rỡ khi đón Thảo, cô em út của đội có
mái tóc óng mượt dài chấm gót.
Họ quyết tâm không để rừng cướp mất mái tóc
ấy, để rồi bật khóc khi rừng mạnh hơn, bất chấp đủ loại lá thơm mà họ mang về
cho Thảo gội đầu.
Họ si mê chàng người yêu của Thảo, nhưng không
phải cho họ, mà cho cô, nâng niu tất cả những gì giúp họ biết rằng vẫn có người
trong số họ là phụ nữ, là phái đẹp, phái yếu.
Giữa bom đạn và cái chết, những bận tâm về mái
tóc, về tình yêu không phải của mình mới lạ lùng và nữ tính biết bao.
Cũng chỉ phụ nữ mới có thể đau đớn đến trầm
lặng và già thêm hai mươi tuổi chỉ sau một đêm, không phải vì căn bệnh hystery
bộc phát và ngay sau đó đã được chữa trị, mà vì sự xấu hổ đến mức kinh hoàng
khi những khoảnh khắc điên dại, lõa lồ của bản thân đã bị phơi trần trong phút
chốc.
Tâm lý chưa thấy người nằm dưới mồ thì chưa
tin rằng chồng đã chết, mặc kệ giấy báo tử với những thông tin rõ ràng, để rồi
lang thang khắp nơi tìm chồng đến hóa điên của một người vợ lính trong truyện
ngắn Trận gió màu xanh rêu cũng thể hiện rất đúng tâm lý và
kiểu tư duy bằng cảm xúc của phụ nữ.
Để cho
người đàn bà sống lâu nhất ở lãng Đẽo (còn gọi là làng Góa) thổ lộ về ngày giỗ
chung của làng, Võ Thị Hảo đã từ những diễn ngôn của nữ giới để ưu tư về những
nỗi đau hậu chiến: “Ở đây buồn quá, chúng tao mới nghĩ ra trò giỗ chung. Những
mụ chồng chết trận như tao làm gì biết ngày chết mà giỗ… rồi những mụ góa…
những con mẹ không chồng… đến ngày giỗ chung cũng cứ khăn trắng, cũng có mâm cỗ
đội ra giỗ…”.
Giỗ
chung trở thành một “trò chơi” xoa dịu nỗi đau, một nghi lễ về cái chết để làm
điểm tựa cho cái sống ở một ngôi làng nơi đảo vắng, cùng những người phụ nữ hẩm
hiu, bất hạnh.
***
“Chiến tranh không được trả giá trong thời
chiến. Hóa đơn sẽ đến sau đó” (Benjamin Franklin). Xót xa thay, trong nhiều
trường hợp, phụ nữ là những người phải trả hóa đơn.
“Lên án
cái phi nhân của chiến tranh từ những bi kịch nữ giới, các nhà văn Việt Nam hậu
chiến đã tô đậm nỗi đau kéo dài của con người, ngay cả khi chiến tranh đã đi
qua.
Có thể nói, đã có một lịch sử của những liên
đới giữa phụ nữ và chiến tranh trong văn xuôi Việt Nam thời hậu chiến, một lịch
sử không phải của sự kiện, chiến công, của những người anh hùng mà của những
đau thương mất mát, thông qua những số phận phụ nữ.
Nhận diện từ những chấn thương nữ giới, văn xuôi Việt Nam thời hậu chiến đã góp phần tạo nên một cái nhìn đa chiều, một cái nhìn khác về chiến tranh – một chiến tranh vừa mang gương mặt phụ nữ, gắn với những số phận phụ nữ; và vừa “không có một khuôn mặt phụ nữ” khi quá bạo tàn với phụ nữ.
Theo Tạp chí Nhật Lệ