Tác giả: Dư Thu Vũ | Biên dịch: Nguyễn
Hải Hoành
https://nghiencuuquocte.org/2021/06/11/cac-dac-tinh-va-te-nan-cua-van-hoa-trung-quoc/
1. Các đặc tính của
văn hóa Trung Quốc
Rất nhiều học giả đã
phát biểu về đặc tính của văn hóa Trung Quốc. Tôi không tán thành phần lớn các
ý kiến của họ. Nguyên nhân chỉ có một: những “đặc tính” họ tìm ra thì không có
gì khác với các tính đặc thù thực sự của các nền văn hóa khác.
Ví dụ: “mạnh mẽ, đầy
triển vọng”, “vươn lên không biết mệt mỏi”, “nội dung bao la mênh mông”, “tôn
sư trọng giáo”, “khoan dung nhường nhịn”, “hậu đức tải vật”,[1] những
thành ngữ này luôn được thay nhau dùng để khái quát các đặc tính của văn hóa
Trung Quốc. Thoạt xem dường như không có gì sai cả, nhưng một khi dịch ra tiếng
nước ngoài thì rắc rối, vì trong những sách kinh điển của hầu hết các dân tộc
trên thế giới đều có cách nói tương tự, chẳng qua chúng ta trình bày bằng văn
ngôn của Hán ngữ mà thôi.
Điều đó cho thấy sự
nhất trí đáng quý của văn hóa Trung Quốc với văn hóa thế giới. Nó cũng cho thấy
chúng ta không thể lấy tính nhất trí đó để thuyết minh đặc tính của văn hóa
Trung Quốc. Điều quan trọng hơn là, những từ ngữ đẹp đẽ ấy phần lớn là lời dạy
và lời tuyên bố với mọi người của các nhà tư tưởng cổ đại, không thể nói rõ
những thứ đó đã được người ta áp dụng vào thực tế hay chưa. Đúng là có một số
thứ các nhà tư tưởng cổ đại đã nhìn thấy nhưng người ta lại chưa làm được, cho
nên họ mới đưa ra những lời răn dạy. Vì thế cái gọi là đặc tính văn hóa ắt còn
phải có tính thực tiễn rộng rãi và lâu dài.
Xét theo tiêu chuẩn
tính độc đáo và tính thực tiễn, tôi khái quát các đặc tính của văn hóa
Trung Quốc thành ba thứ “Đạo”:
– Thứ nhất, trên mô
thức xã hội, văn hóa Trung Quốc đã xây dựng nên “Đạo Lễ nghi”;
– Thứ hai, trên mô
thức nhân cách, đã xây dựng được “Đạo Quân tử”;
– Thứ ba, trên mô thức
hành vi, đã xây dựng được “Đạo Trung dung”.
Dùng ba thứ “Đạo” này
để thuyết minh sự khác biệt căn bản giữa văn hóa Trung Quốc với các loại văn
hóa khác, người nước ngoài có thể tiếp thụ được không?
Bắt đầu từ cách đây
sáu năm, tôi được mời đến nói chuyện tại các trường đại học Harvard, Yale,
Columbia, Maryland và Thư viện Washington ở Mỹ, tại các nơi đó tôi đều nói theo
mạch suy nghĩ này, người nghe có phản ứng rất tích cực. Sau mỗi lần nói chuyện,
tôi đều thảo luận với các giáo sư và học giả sở tại. Nhìn chung có thể khẳng
định, mạch suy nghĩ ấy của tôi tương đối dễ được giới học giả quốc tế chấp
nhận.
Sau đây tôi xin dùng
lời lẽ đơn giản nhất để nói qua về ba thứ “Đạo” này.
Trước hết nói về “Đạo
Lễ nghi”. Tổ tiên chúng ta từ sớm đã phát hiện văn hóa tuy mềm mại
nhưng muốn lưu truyền văn hóa thì phải tạo cho nó một hình thái cụ thể. Phần
lớn văn hóa dân gian truyền lại từ xã hội nguyên thủy đều được thực hiện rộng
rãi theo phương thức cứng rắn của những phong tục xấu [?]. Như vậy không thể để
những thứ mà các nhân vật tinh hoa tư tưởng muốn thực hiện rộng rãi như nhân
ái, cao thượng, hiền lành, kính trọng lẫn nhau, nhường nhịn, trật tự… trở thành
thứ sáo rỗng, mà phải thiết kế ra một bộ quy phạm hành vi, thông qua các nghi
thức nhất định để tiến hành truyền bá những thứ đó theo kiểu bán cưỡng chế hóa.
Thí dụ văn hóa Hiếu xuất phát từ luân lý tình thân, trẻ nhỏ
chưa hiểu sâu thì cũng phải học được thói quen hàng ngày đến hỏi thăm sức khỏe
cha mẹ. Sự hỏi thăm ấy chính là quy phạm hành vi bán cưỡng chế hóa, cũng là sợi
dây làm cho văn hóa Hiếu có thể tiếp diễn. Vì thế cái gọi là
“Lễ nghi” là một loại nghi thức văn hóa đã đời sống hóa, tiện cho việc cố định,
thực hành, xem xét, kế thừa. Những người đặt ra quy phạm đó tin rằng chỉ cần
quy phạm và nghi thức còn tồn tại thì tinh thần văn hóa chứa đựng trong đó sẽ
có khả năng tồn tại; nếu không thì tinh thần văn hóa sẽ chỉ có thể theo gió mà
bay mất. Bởi thế Tuân Tử nói: “Lễ giả, nhân đạo chi cực dã”. Nghĩa là lễ nghi
là cái gốc của đạo đức nhân văn. Dĩ nhiên lễ nghi cũng sẽ đem lại cho mỗi người
rất nhiều cái mất tự do; điều đó Khổng Tử từ sớm đã nhận thấy, bởi vậy ông nói
“Khắc kỷ phục lễ”.[2] Chính
là sự nỗ lực của Khổng Tử và các vị thầy tiền bối khác đã làm cho Trung Quốc
được nhiều lần gọi là “Nước của lễ nghi”.
Lấy “Lễ nghi” làm mô
thức xã hội, điều này cũng làm cho Trung Quốc trong mấy nghìn năm qua vẫn giữ
được một kiểu đoan trang đáng quý. Khuyết điểm là “Lễ nghi” quá chú trọng hình
thức bên ngoài và lễ nghi rắc rối, điều đó đã hạn chế sự vỡ lòng của tâm linh
và sự biểu đạt cá tính, lại càng cản trở phần lớn học giả Trung Quốc tiến hành
tư duy siêu nghiệm, trừu tượng và có kết cục cuối cùng.
Tiếp theo xin nói về “Đạo
quân tử”. Giới Nho sĩ muốn cải tạo xã hội mà không làm được việc đó,
cuối cùng họ bèn biến mục tiêu cải tạo xã hội thành cải tạo nhân cách. Thoạt
tiên họ xác định trình tự hành vi là “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”. Tu thân là điểm xuất phát, ngờ đâu vất vả tu thân bao năm đến cuối
cùng thì dự định trị quốc, bình thiên hạ về cơ bản lại tan vỡ; vì thế điểm xuất
phát lại biến thành nơi đến. Hình mẫu nhà Nho tu thân là quân tử.
Lấy quân tử làm nhân
cách lý tưởng– đây là đặc trưng độc đáo của văn hóa Trung Quốc.
Tại đây chúng ta có
thể làm một đối chiếu vĩ mô:
Trên thế giới này có
dân tộc coi nhân cách lý tưởng là “Giác giả” [người tu hành đã giác ngộ,
Buddha],
Có dân tộc coi nhân
cách lý tưởng “Nhà Tiên tri”,
có dân tộc coi nhân
cách lý tưởng là “Người khổng lồ” [Giant],
có dân tộc coi nhân cách lý tưởng là “Thân sĩ” [Gentlement],
có dân tộc coi nhân
cách lý tưởng là “Kỵ sĩ” [Hiệp sĩ,
Knight],
có dân tộc coi nhân
cách lý tưởng là là “Võ sĩ”.
Nhưng nhân cách lý
tưởng của dân tộc Trung Hoa là “Quân tử” thì không lặp nhân cách lý tưởng nói
trên.
Tổ tiên chúng ta không
định nghĩa quân tử là gì.
Nhưng điều còn đặc sắc
hơn là các vị ấy xác định rõ ràng mặt đối lập của quân tử —— tiểu nhân.
Hơn thế nữa, trên tất
cả các vấn đề còn tiến hành đối chiếu quân tử và tiểu nhân với nhau, đối chiếu
trực tiếp ở cự ly gần. Phương thức lý luận đó có hình ảnh rõ ràng, tương phản
mạnh, dễ cảm nhận, lại có thể cao giọng nói ra, [vì thế] cực kỳ dễ lưu truyền.
Các bạn xem đấy, xưa
nay bất cứ người Trung Quốc nào có chút văn hóa đều có thể buột miệng nói những
câu như “Quân tử thường đãng đãng, tiểu nhân thường thích thích”, “Quân tử cầu
chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân”, “Quân tử dụ vu nghĩa, tiểu nhân dụ vu lợi”,
“Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái”, “Quân tử hòa nhi bất
đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa”[3]…
Kết quả là hơn hai nghìn năm qua, giới hạn giữa quân tử với tiểu nhân
trở thành ranh giới thứ nhất của văn hóa Trung Quốc. Bất cứ người Trung
Quốc nào, cho dù thất bại thì cũng mong muốn thất bại như người quân tử mà
không mong muốn chuyển biến thành kẻ tiểu nhân thành công; cho dù bị người khác
nói mình là kẻ xấu thì cũng không muốn bị nói là kẻ tiểu nhân. Điều đó ăn sâu
vào lòng người, chứng minh các nhà Nho cổ đại đúng là đã đem tất cả mọi giấc mơ
chính trị, giấc mơ lễ nghi ngưng tụ thành giấc mơ quân tử, giấc mơ nhân cách.
Cuối cùng xin nói về “Đạo
Trung dung”. Nói dễ hiểu, tức là văn hóa Trung Quốc về bản tính không
tín nhiệm mọi sự hấp dẫn cực đoan hóa. “Đạo trung dung” cho rằng các lời lẽ cực
đoan tuy rằng nghe thì sướng tai đấy, vui đấy nhưng nhất định là hại người hại
mình. Vì vậy phải cảnh giác với cái sướng và vui ấy, phải đi tìm sự thích hợp
và thích đáng; phải từ bỏ sự cứng nhắc và hẹp hòi mà đi tìm kiếm sự co dãn và
khoan dung.
“Đạo trung dung” là
một phương thức tư duy tổng thể. Nó phản đối sự chia cắt mà đề xướng sự chỉnh
hợp; nó mong muốn sự rõ ràng nhưng lại dung thứ sự hỗn độn; nó yêu cầu kết quả
nhưng cũng thừa nhận quá trình; nó biết phải trái nhưng lại khẳng định sự
chuyển hóa; nó cho rằng tổng thể của sự bổ khuyết lẫn nhau, tác động lẫn nhau,
dịch chuyển lẫn nhau là bộ mặt thật của thế giới, mà tư duy cực đoan hóa là tư
duy giả tạo.
Trong lịch sử, tại
Trung Quốc cũng từng xuất hiện không ít sự kiện cực đoan hóa, gần đây có Nghĩa
Hòa Đoàn, “Cách mạng Văn hóa” v.v… nhưng thời gian không dài [?]. Các sự kiện
chiếm địa vị chủ đạo trong lịch sử vẫn là triết lý “trung dung”, “trung hòa”,
“trung đạo” dựa trên luân hồi bốn mùa của văn minh nông canh, sự hỗ sinh của âm
dương. Loại triết lý này qua sự trình bày sâu sắc và áp dụng vào thực tiễn của
Nho giáo và Đạo giáo đã trở thành mô thức hành vi cơ bản của người Trung Quốc,
hình thành sự đối chiếu rõ rệt với những nơi khác trên thế giới bao lâu nay mê
đắm với chủ nghĩa cực đoan tôn giáo và chủ nghĩa bành trướng quân sự. Tôi cho
rằng trong số mấy nền văn minh lớn của loài người, nền văn minh Trung Hoa có
thể trở thành nền văn minh duy nhất may mắn còn lại, chưa bị gián đoạn và tiêu
vong; việc này có rất nhiều nguyên nhân, trong đó bí mật quan trọng nhất là
“Đạo Trung dung”. Trong nhiều tai nạn lớn, “Đạo trung dung” có tác dụng làm
dịu, tác dụng ngăn ngừa bùng nổ và tác dụng chữa lành vết thương, vừa bảo toàn
bản thân vừa bảo vệ thế giới. Ví dụ nền văn hóa dòng chính của Trung Quốc không
tán thành các cuộc viễn chinh đưa quân đội ra nước ngoài. Điều này rất khác với
các nền văn minh lớn trên thế giới. Sự khác biệt này ngay cả rất nhiều giáo sĩ
phương Tây đến Trung Quốc truyền giáo cũng phải trải qua thời gian rất lâu mới
hiểu được, họ phát hiện nguồn gốc là “Đạo trung dung”. Năm 2005 tôi có đọc tại
Đại hội Văn minh thế giới của Liên Hợp Quốc bài diễn văn “Giải đáp của Matteo
Rici”,[4] trong
đó tôi dùng một loạt sự thực lịch sử từ góc độ triết học văn hóa để phản bác
“Thuyết Trung Quốc đe dọa”.
Tóm lại, ba thứ “Đạo”,
mô thức xã hội, mô thức nhân cách, mô thức hành vi thật là đầy đủ, hơn nữa lại
tổ hợp nghiêm chỉnh, tạo ra một loại “thế chân vạc” của nền văn hóa lớn. Cái
vạc văn hóa này vừa là lý do ngưng tụ tinh thần người Trung Quốc lại vừa là một
công trạng lớn của người Trung Quốc trên trái đất này. Nếu người khác không thừa
nhận thì đó là do họ không có kiến thức mà thôi.
Cho tới nay còn có
những người vẫn hay dùng một số quan niệm xã hội do phương Tây tạo dựng trong
thời kỳ cận đại để chê bai Trung Quốc và người Trung Quốc. Đúng là các quan
niệm ấy của phương Tây đều rất ưu tú, rất đáng được chúng ta học tập, nhưng tôi
cũng có chút không phục. Bởi lẽ trước khi các quan niệm đó ra đời thì văn hóa
Trung Quốc đã sống tương đối mạnh mẽ ít nhất 5000 năm. Chứng cứ của sự “tương
đối mạnh mẽ” là trong khi các láng giềng cùng tuổi đã liên tiếp chết sớm thì
văn hóa Trung Quốc vẫn tràn trề sinh lực sống cho tới ngày nay, sinh ra chư tử
bách gia, sinh ra các triều Tần, Hán, Đường, Tống, sinh ra số dân đông đảo.
Sống lâu như thế, lớn như thế, lẽ nào lại không có giá trị tinh thần của mình
ư?
Cách đây vài tháng,
tại Đài Bắc, tôi có tranh cãi với một nhà chính luận người Mỹ gốc Hoa. Ông ấy
nói: “Hệ thống giá trị của phương Tây là điểm khởi đầu và điểm kết thúc của
toàn bộ các vấn đề chúng ta thảo luận.” Tôi nói: “Có phải là điểm kết thúc hay
không, ông và tôi đều không có tư cách phán đoán. Nhưng tôi có tư cách khẳng
định khởi điểm không ở đấy.”
2. Các tệ nạn của văn
hóa Trung Quốc
Sau khi đã nói về công
trạng của văn hóa Trung Quốc thì cũng cần bàn một chút về các tệ nạn của nó.
Văn hóa Trung Quốc có
tầm vóc lớn, tuổi thọ dài, đương nhiên tệ nạn rất nhiều. Để tương ứng với ba
thứ “Đạo” đã nói ở trên, tôi cũng chọn ra ba thứ “Yếu”.
Điểm yếu thứ nhất của
văn hóa Trung Quốc là xa lạ với không gian công
cộng.
“Không gian công cộng”
(public space) được coi là một mệnh đề xã hội học và được trường phái học thuật
Frankfurt ở Đức tái giải thích, thực ra là một điểm sáng lớn tự cổ chí kim của
văn hóa châu Âu. Văn hóa Trung Quốc xưa nay tương đối u ám về điểm này, xưa nay
bao giờ cũng nhấn mạnh trên phải không hổ thẹn với xã tắc triều đình, dưới phải
không hổ thẹn với gia đình, người thân, tức cái gọi là “Trung hiếu vẹn toàn”.
Nhưng có trung, hiếu thì đã “vẹn toàn” chưa? Chưa đâu. Giữa triều đình và gia
đình còn có một “không gian công cộng” rộng rãi. Đây là một vùng mù của văn hóa
Trung Quốc.
Bạn xem đây, thời xưa
khi một vị quan ngồi kiệu đến một không gian công cộng nào đó thì phía trước
nhất định phải có lũ người hầu giơ hai cái biển trên viết mấy chữ: “Yên lặng”,
“Tránh ra”. Thế là thoắt một cái, không gian công cộng biến mất. Như vậy dường
như chỉ còn để người trí thức quan tâm tới không gian công cộng. Thế nhưng các
văn nhân Trung Quốc lại tuân theo một câu khẩu hiệu tự răn mình: “Hai tai chớ
nghe chuyện bên ngoài cửa sổ, một lòng chỉ đọc sách thánh hiền”. Cái “bên ngoài
cửa sổ” nói ở đây tức là không gian công cộng, nơi các văn nhân không được để ý
tới. Cũng có khi họ nói “Thiên hạ hưng vong” nhưng chủ yếu nói sự hưng vong của
triều đình.
Đối chiếu bệnh này với
lời bàn quan trọng sau đây của triết gia Kant thì sẽ thấy rõ hơn. Kant nói,
người trí thức có trách nhiệm cao cả là “Dám vận dụng lý trí tại mọi không gian
công cộng.”
Khi đi du lịch nước
ngoài, tôi thường nghe thấy các bạn ngoại quốc oán trách du khách Trung Quốc có
những hành vi xấu như nhổ bậy, nói to, đánh bài trong đại sảnh khách sạn v.v…,
cho như thế là không có đạo đức. Tôi thường hay nói vài câu bào chữa cho đồng
bào mình, như nói mấy người nói to ấy là phụ nữ nhà quê, rất có thể họ từng
nhận nuôi vài trẻ mồ côi đấy ạ. Thái độ thiếu tư cách của họ chỉ nói lên họ
không biết quy tắc hành vi tại nơi không gian công cộng. Lỗi không phải ở họ mà
là ở văn hóa Trung Quốc. Đương nhiên rốt cuộc chuyện ấy đúng là cũng có liên
quan tới đạo đức, đó là thiếu đạo đức công cộng.
Khiếm khuyết này của văn
hóa Trung Quốc ngày nay chỉ có thể trông mong vào sự bổ khuyết của những người
đương đại chúng ta. Rất nhiều đô thị đề xuất phải xây dựng “Đô thị mạnh về văn
hóa”. Tôi cho rằng điều quan trọng nhất không phải là đưa ra bao nhiêu tác
phẩm, mà là ở chỗ xây dựng lại không gian công cộng.
Không gian công cộng
là tác phẩm văn hóa lớn nhất đồng thời lại là lớp học văn hóa lớn nhất. Nhân
cách tập thể và thói quen thẩm mỹ của đông đảo người dân đô thị đều được đào
tạo tại đây.
Điểm yếu thứ hai của
văn hóa Trung Quốc là xa lạ với ý thức thực chứng.
Cố giáo sư sử học
người Mỹ gốc Hoa ông Hoàng Nhân Vũ nói, tệ nạn lớn nhất trong lịch sử Trung
Quốc là “thiếu sự quản lý số hóa”. Ông cố ý hài hước dùng một từ ngữ mới để
trình bày một vấn đề cũ. Ông đặc biệt nêu lên ví dụ sách “Minh Thực Lục”, tài
liệu về triều đình nhà Minh, phát hiện thấy phần lớn số liệu ghi ở đây đều rất
không chính xác, thậm chí cực kỳ xằng bậy, nhưng người biên soạn, sao chép,
người soát cho tới người đọc, người trích dẫn dường như đều rơi vào vùng mù.
Ở Trung Quốc hiện nay,
vùng mù ấy chỉ tăng chứ không giảm. Nhất là những số liệu xem ra ở tư thế có
chứng cớ thực tế nhất thì lại thường là khó tin hơn cả. Nào là “Dẹp loạn thành
công trong ba tháng”, “sản lượng lúa mỗi mẫu 20 vạn cân”, “95% phái đương quyền
đã thối nát” v.v… những con số thịnh hành trong cả nước ấy, liệu cái nào đã
được chứng thực là có?
Thiếu ý thức thực
chứng cũng là thiếu ý thức khoa học. Khuynh hướng này làm cho văn hóa Trung
Quốc trong một thời gian dài ngụp trong vũng bùn “Chỉ quan tâm chuyện trung
thực và gian dối, không quan tâm thật giả”. Thực ra không làm rõ thật giả thì
mọi thứ khác đều mất cơ sở nền tảng. Chuyện ấy cũng có liên quan tới việc mất
chữ tín khiến mọi người đau lòng hiện nay. Nước nào cũng có hàng giả, nhưng
hàng giả gây tai hại nhất với Trung Quốc; tin đồn nhảm nước nào cũng có nhưng
tác hại sâu sắc nhất với Trung Quốc. Đó là do văn hóa Trung Quốc không có cơ
chế và trình tự phát hiện thật giả, ngăn chặn làm giả, xóa bỏ tin đồn nhảm.
Nhiều năm nay tôi phát
hiện thấy bất cứ ai khi phải hứng chịu tin đồn nhảm nhằm vào mình thì họ không
thể tìm được biện pháp văn hóa nào để xóa bỏ tin đồn ấy. Thế nào là “biện pháp
bản thân văn hóa”? Đó là không cần phải dựa vào sự điều tra làm rõ của cơ quan
nhà nước, cũng chẳng cần phải tự tử, mà chỉ dựa vào năng lực phân biệt chứng cớ
của đa số dân chúng trong xã hội và sự nhạy cảm logic đối với sự giả dối, thì
đã có thể phục hồi chân tướng của sự việc. Nền văn hóa Trung Quốc hoàn toàn bất
lực đối với chuyện đó. Đa số văn nhân Trung Quốc tiếp tay cho kẻ xấu, hầu như
mọi tin đồn có hậu quả xấu nhất đều do các văn nhân đặt ra. Lẽ ra sự phát triển
truyền thông và Internet có thể giúp cho việc tìm kiếm chứng cớ, dẹp tin đồn,
nhưng sự thực cho thấy là trên mức độ rất lớn, các phương tiện này lại chắp
cánh cho tin đồn bay khắp nơi.
Tóm lại, trên vấn đề
này, văn hóa Trung Quốc hình thành cục diện kỳ quặc, tôi từng dùng 8 câu ngắn
để khái quát như sau: – phao tin đồn không chịu trách nhiệm; – truyền tin đồn
không gặp cản trở; – trúng tin đồn không ai giúp; – muốn bác bỏ tin đồn không
có cách nào; – bác tin đồn: không hiệu quả; – phá tin đồn: không hứng thú; –
tin đồn cũ vừa qua, tin đồn mới đã đến; – tin đồn nhiều không đếm xuể.
Từ đây liên tưởng đến
tình hình chung toàn xã hội, khi nào có kẻ cố ý phao tin đồn gây sự thì nhất
định sẽ xảy ra một tai nạn nhân văn khó kiểm soát. Mấy năm nay tôi ngạc nhiên
phát hiện thấy ở Hong Kong có rất nhiều văn nhân cố chấp tin rằng cho đến nay
hiện trường nạn động đất ở Văn Xuyên [Tứ Xuyên, 12/5/2008] vẫn còn “khắp nơi
kêu la rên xiết, dân chúng lầm than điêu đứng”. Tôi gắng sức dùng những điều
chính mình tai nghe mắt thấy để phản bác nhưng không có kết quả. So sánh với
các nước khác trên thế giới từng xảy ra thiên tai, tuy hoạt động cứu trợ của họ
thua xa Trung Quốc, thế nhưng họ lại không có những tin đồn như vậy. Bởi thế
tôi không thể không nhận định rằng ở đây đúng là ẩn chứa một căn bệnh lớn của
văn hóa Trung Quốc.
Điểm yếu thứ ba của
văn hóa Trung Quốc là xa lạ với quan niệm pháp chế.
Khi bàn vấn đề này,
tôi không xuất phát từ góc độ chính trị mà xuất từ góc độ văn hóa. Cho tới nay,
loại hình văn học nhiều người đọc nhất ở Trung Quốc vẫn là tiểu thuyết kiếm
hiệp. Về thủ pháp nghệ thuật trong tiểu thuyết kiếm hiệp có rất nhiều cây bút
cự phách, nhưng về quan niệm văn hóa [họ] lại cứ nhất thiết ca ngợi các “anh
hùng ngoài vòng pháp luật”. Ở nước ngoài cũng có loại anh hùng này, như Robin
Hood, Zorro, song địa vị văn hóa của họ kém xa địa vị trong văn hóa Trung Quốc.
“Hảo hán” trong văn hóa Trung Quốc bao giờ cũng thách thức luật pháp, “giang
hồ” bao giờ cũng cách xa luật pháp, “lương dân” bao giờ cũng chặn kiệu quan để
tố cáo, “quan thanh liêm” bao giờ cũng diễn trò nhân đức ở ngoài vòng pháp
luật. Còn có thể kể tiếp những cái “bao giờ cũng” ấy –– điều đó cho thấy xưa
nay phần đông linh hồn dân gian Trung Quốc đều nằm ngoài vòng pháp chế hoặc
phiêu bạt ở vùng ngoại vi.
Dĩ nhiên điều đó có
liên quan tới các tật bệnh của pháp chế Trung Quốc xưa nay. Để so sánh, ta thấy
“cướp biển Bắc Âu” hầu như cùng thời với “hảo hán Thủy Hử”, nhưng đều trải qua
quá trình chuyển hóa đau khổ từ “trả thù nhà” đến “xét xử lý trí”. Quá trình
chuyển hóa này của Trung Quốc rất muộn, tới nay mới bắt đầu, nhưng trên mặt văn
hóa thì vẫn chưa thực sự bắt đầu. Vấn đề này tôi có bàn khá chi tiết ở phần
viết về cướp biển Bắc Âu trong cuốn “Hành giả vô cương” .
Sự xa lạ phai nhạt
quan niệm pháp lý của văn hóa Trung Quốc đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc
đông đảo dân chúng tiến nhanh lên văn minh hiện đại. Điều làm người ta lo lắng
là hiện nay có rất nhiều quan chức còn đang bận trình diễn các cử chỉ tách rời
trình tự pháp chế gọi là “thân dân”, dùng tiền bạc để vỗ về sự phi pháp, kết
quả luật pháp bị hạ thấp, chính nghĩa bị bỏ xó, kẻ hung dữ đắc lợi, người lương
thiện bị thiệt hại. Điều nghiêm trọng hơn là không ít văn nhân hoạt động sôi
nổi trong giới truyền thông và internet còn đem sự huyên náo quây lại thành
“tòa án nhân dân [nguyên văn: dân gian]”. Thực ra lịch sử Trung
Quốc và nước ngoài đều đã chứng tỏ tất cả những cái “Tòa án nhân dân” trên thế
giới đều là sự phá hoại lớn nhất đối với luật pháp [ví dụ các toà án trong cuộc
Cải cách ruộng đất ở TQ].
Văn hóa Trung Quốc còn
có rất nhiều chỗ yếu. Tôi từng nói một cách rất hệ thống vấn đề này trong cả
một năm trên đài truyền hình vệ tinh Phượng Hoàng ở Hong Kong. Hôm nay vì thời
gian hạn chế, chỉ xin nêu lên ba điểm kể trên. Nhưng chỉ ba điểm này thì đã đủ
trầm trọng rồi. Muốn khắc phục, e rằng cần trải qua vài thế hệ nữa.
Dư Thu Vũ (1946-), 20
tuổi tốt nghiệp khoa Văn học kịch nói Học viện Hý kịch Thượng Hải, năm 1985 trở
thành giáo sư văn học trẻ nhất Trung Quốc; năm 1987 được tặng danh hiệu Chuyên
gia có cống hiến đột xuất cấp Nhà nước, hiện là Giám đốc Học viện Nghệ thuật
nhân văn Macau. Bài này trích từ bài viết rất dài có đầu đề “Nỗi lo của văn hóa
Trung Quốc” công bố tháng 9/2012.
Nguyễn Hải Hoành lược dịch từ nguồn tiếng Trung 余秋雨:中国文化的隐忧 12-09-13
—————–
[1] (Quân tử) dĩ hậu đức tải
vật : ý nói kẻ đạo đức cao thượng có thể gánh vác được nhiệm vụ lớn.
[2] Tự kiềm chế bản thân, quay về với đạo
lý.
[3] Quân tử thì thản nhiên thư thái, tiểu
nhân thì thường lo lắng u sầu; – Quân tử trông cậy bản
thân, tiểu nhân trông cậy người khác; – Quân tử biết rõ nghĩa, tiểu
nhân biết rõ cái lợi; – Quân tử thư thái mà không kiêu căng, tiểu nhân
kiêu căng mà không thư thái; – Quân tử sống hòa hợp với mọi người mà vẫn giữ
quan điểm riêng (không a dua), tiểu nhân sống chung với mọi người mà không hòa
hợp.
[4] Matteo Rici, 1552-1610, giáo sĩ người Ý,
truyền giáo ở TQ 30 năm, giỏi Hán học, viết sách “Tạp ký Matteo Rici”, nhận xét
TQ mạnh quân sự nhưng không có dã tâm xâm lược nước ngoài như các cường quốc
châu Âu.