Doãn Quốc Sỹ sinh 17 tháng 2 năm 1923 nên những ngày này đang được nhiều báo nhắc nhở như là một cách kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của ông. Ông nổi tiếng với nhiều tác phẩm thuộc các thể loại và các phong cách khác nhau nhưng truyện ngắn sau đây thường được nhớ tới vì vẻ đôn hậu của nó. Tác phẩm đến với độc giả như một lời tâm sự chân tình nên đọc thấy rất thấm thía và rất thuyết phục. Chiếc chiếu hoa cạp điều đã được chọn để đưa vào tuyển tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta 1973 để kỷ niệm hai mươi năm văn học miền nam 1954 – 1973
Quê tôi cách Hà Nội chừng năm cây số. Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ thì gia đình tôi tản cư lên Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế, Bắc Giang. Đến năm 1948 khi cậu tôi từ Vĩnh Yên lên thăm chúng tôi lần đầu toàn thể gia đình chúng tôi ai nấy đều có màu da nửa vàng nửa xám xịt vì sốt rét rừng.
Anh chị phải cho các cháu tản cư về mạn dưới
như chúng tôi - lời cậu tôi nói với thầy mẹ tôi - chứ cứ như thế này thì không
chết cũng chẳng còn ra hồn người nữa.
Sau ngót hai năm tản cư gia đình tôi khánh tận
rồi. Có lẽ vì nghĩ vậy nên thầy mẹ tôi tìm cách nói thác:
- Ngày xưa vùng Yên Thế Thượng này độc nhưng
nay vì có nhiều người lên khai phá nên khí hậu cũng không đáng ngại lắm.
Cậu tôi không chịu:
- Anh chị về Vĩnh Yên gần chúng tôi cho có anh
có em, vừa tránh được nạn sốt rét rừng vừa có cơ buôn bán khá. (Dạo đó Vĩnh Yên
còn là cửa ngõ của việc thông thương giữa Liên khu III với Bắc Việt).
Rồi cậu tôi về Vĩnh Yên. Hai tháng sau người
lại lên, nhất quyết đón gia đình tôi xuôi, nói là nơi ăn chốn ở đã thu xếp đâu
vào đó cả.
Thế là gia đình tôi xuôi Vĩnh Yên, còn một
mình tôi ở lại Sở Thông Tin Liên khu III. Công tác của tôi là đi tuyên truyền
mười điều kháng chiến trong toàn huyện Yên Thế. Vì lưu động như vậy nên tôi
cũng quên đi nỗi buồn gia đình phân cách đôi nơi. Nỗi buồn đó chỉ đến thắc mắc
lòng tôi mỗi khi trở về trụ sở kiểm điểm công tác. Trụ Sở Thông Tin ở một làng
bên tả ngạn sông Thương, gần một bến đò đẹp vào bậc nhất Bắc Giang, bến đò Lục
Liễu. Để tăng phần thơ mộng cho cái tên đó tôi vẫn thường dịch nôm là "Bến
đò liễu xanh".
Thư của em tôi tới báo cho hay gia đình đã tới
tản cư cùng làng với gia đình cậu mợ tôi. Làng đó ở ngay bến Rau, bên này là
Vĩnh Yên, bên kia là Sơn Tây rất thuận tiện cho việc buôn bán.
Rủi thay, thầy mẹ tôi vừa đến Vĩnh Yên thì quân
Pháp mở chiến dịch càn quét khắp vùng Sơn Tây rồi thiết lập thêm đồn quân dọc
theo hữu ngạn sông Hồng từ Sơn Tây ngược lên đến Việt Trì. Các ngả đường giao
thông với Liên khu III đều bị quân Lê Dương phục kích ráo riết.
Cậu tôi đã rơi vào ổ phục kích của chúng, dấn
vốn khánh tận may thoát được người. Mẹ tôi phải ngừng chuyện buôn bán.
Nghe nói làng N.H. bên hữu ngạn sông Đáy gần
chân dãy núi Tam Đảo là một làng trù mật, chuyên bán đỗ, gia đình tôi bèn
chuyển đến đây theo sáng kiến của mẹ tôị khi tới nơi, mẹ tôi mới thấy rằng mình
đã nhầm. Trước đấy một năm thì địa điểm này buôn bán được vì hầu như dân chúng
toàn hạt Vĩnh Yên đổ xô về để tránh Pháp tấn công, nhưng nay, tình hình tạm yên
ai nấy trở về chốn cũ, địa điểm N.H. trở lại vẻ trầm mặc của chốn chuyển tiếp
giữa vùng trung du bên dưới với vùng đèo heo hút gió bên trên.
Vừa lúc đó tôi xin thôi ở sở Thông Tin về.
Mẹ tôi mừng lắm vì người vẫn thường nói:
"Thời loạn lạc gia đình nên gần nhau nhỡ có thế nàọ…". Hình như trong
óc người - có thể nói trong óc mỗi người trong gia đình tôi - đều luôn luôn lo
sợ cảnh một người bị chết vì bom đạn rồi mất xác vì gia đình không kịp biết để
nhìn nhận. Niềm vui đoàn tụ giúp chúng tôi bớt buồn nản khi thu xếp gồng gánh
trở lại huyện Yên Lạc. Lần này gia đình tôi không dám ở gần bến đò Rau nữa vì
sợ phi cơ oanh tạc, mà ở một làng cách huyện Yên Lạc chừng gần một cây số. Gia
đình cậu tôi ở ngay làng bên. Lẽ cố nhiên cả hai gia đình chúng tôi cùng nghèo
túng lắm, nghèo túng đến nỗi cậu mợ tôi, thày me tôi cũng không dám sang nhà
thăm nhau, chỉ chiều chiều ra gặp nhau trên quãng đường đá nối huyện Yên Lạc
với bến đò Rau.
Tôi gặp lại người yêu cũ từ Phủ Lý (Khu III)
chạy lên. Chúng tôi thành vợ chồng, tuy có ký giấy tờ tại Ủy Ban Kháng Chiến
Hành Chính Huyện - cậu mợ tôi là những người làm chứng - nhưng đám cưới hoàn
toàn êm ả, y như một đám cưới vụng trộm.
Em gái lớn tôi xoay đi buôn gạo, ngày ngày kĩu
kịt đi về 20 cây số kiếm chút lãi. Ở Yên Thế tuy bị sốt rét nhưng nhà ở giữa
rừng ít lo bị địch tấn công bất ngờ; tuy cũng nghèo túng nhưng còn có đất rộng
để tăng gia rau cỏ và nuôi được lợn gà.
Về đây những buổi ăn cháo ngô trừ bữa, mẹ tôi
thường có ý khép cửa giữa lại.
Em gái tôi đã phải đi chợ thật xa để đong gạo
rẻ mà rồi tính ra lời lãi cũng chẳng được là bao. Các cụ giải thích hiện tượng
kinh tế này bằng câu: "Thóc gạo có tinh", mẹ tôi làm tương gánh đi
các chợ xa bán để kiếm thêm. Vợ tôi tạng người yếu nhưng khéo tay, không làm
được việc nặng, nàng phụ trách những việc nhẹ như rang đỗ tương, ủ mốc, pha
muối vào nước tương...
Dạo đó trường Luật mở ở gần chợ Me (Vĩnh Yên),
tôi có ghi tên theo học nốt năm thứ ba hy vọng ngày thành tài sẽ ra thẩm phán,
đồng lương họa có cao để giúp gia đình. Vì hoàn cảnh kháng chiến các giáo sư
thường từ nơi xa lại trường sở dạy liền trong mấy ngày, sau đó sinh viên tự tìm
tài liệu nghiên cứu thêm. Có khi thời gian nghiên cứu lấy dài hơn một tháng mới
có giáo sư mới. Tôi triệt để lợi dụng khoảng cách này để bon về giúp đỡ gia
đình những công việc nặng.
Mùa đông năm đó rét lạ lùng. Gió hun hút giật
từng cơn buốt như dao cắt từng mảnh thịt hở, thế mà hôm nào mẹ và em gái tôi
cũng phải dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để sửa soạn gồng gánh ra đi. Quần áo và chăn
chiếu của gia đình tôi thiếu mất nhiều. Thằng em thứ ba của tôi có được cái
chiếu rách mướp vừa nằm vừa đắp, chân thò ra ngoài thì nó lấy rơm phủ lên.
- "Ấy cứ thế mà ấm ra phết anh ạ" -
Nó vừa cười khoái trí vừa nói với tôi như vậy.
Các em trai em gái tôi đã lớn cả, chúng tôi
hầu như thường thi đua trong việc nhường nhịn nhau. Mẹ tôi chỉ còn thắc mắc về
thằng em út của tôi. Nó còn nhỏ tuổi quá chưa thể tìm nguồn vui ở tinh thần để
quên đói rét. Tương đối với cả nhà nó được mặc lành nhất. Nó mặc cái áo đỏ chót
có những vệt chữ nho đen và những đường kim tuyến (nguyên đó là chiếc câu đối
người ta phúng bà tôi hồi chưa tác chiến). Câu đối đỏ thì may áo, còn nẹp sa
teng vàng mẹ tôi cố gạn may thêm cho nó chiếc áo gi-lê. Chúng tôi gọi đùa nó là
"anh cờ đỏ sao vàng". Đêm đến rét quá không đủ chăn ấm, nó thường
khóc khậm khạch. Chỉ cần có thêm đôi chiếu nữa thì cả nhà đủ ấm.
- "Chiếu cói kỵ gió". - Mẹ tôi bảo
thế.
Nhưng đến ăn còn chẳng đủ làm sao chúng tôi
mua được đôi chiếu bây giờ?
Hôm đó suốt từ sáng sớm đến trưa phi cơ bay
từng đoàn bắn phá và dội bom liên tiếp xuống các chợ lân cận: chợ Me, chợ Vàng,
chợ An Lạc... Mọi ngày chỉ khoảng bốn giờ chiều mẹ tôi có mặt ở nhà. Ngày đó
giời đã xế chiều mà người vẫn chưa về. Toàn thể gia đình tôi bắt đầu sốt ruột
tuy không ai nói một câu.
Chiều ngả màu sẫm. Gió bấc rít trong bụi tre
già làm nền cho tiếng khàn khàn của lũ quạ lục đục trong ổ, gió bấc xoáy từng
vòng cuồng loạn dứt từng vốc lá tre, lá bưởi vàng úa rồi lại nhào vút mất hút
ra ngoài cánh đồng bát ngát hiu quạnh.
Mẹ tôi vẫn chưa về.
Trong óc tôi thoáng hiện những cảnh chợ bị phi
cơ tàn phá, những hình người không kịp xuống hầm bị đạn chết gục bên cột lều
tay còn quờ ôm những đồ hàng của mình, những hình người bị bom napalm thiêu rụi
như những thân chuối cháy đen... Và tôi vùng ra cổng.
Thày tôi biết ý hẹn với:
- Con cứ thẳng đường ra bến Rau. Mẹ con thường
về đường ấy.
Ra tới cổng làng, tôi đi như bay theo đường đã
định, cổ họng nghẹn ngào, dạ cồn lên như lửa đốt. Con đường như rộng thênh thang,
cánh đồng ngập trong bóng chiều sẫm và trong gió bấc, càng trở thành mênh mông.
Tôi vun vút nhảy qua các hố phá hoại mà đi như một bóng ma cô độc đương muốn
biến theo luồng gió.
Từ xa như có bóng người đi lại. Chắc người đó
ở chợ Rau về. Để tôi phải hỏi tin tức về việc phi cơ oanh tạc hôm nay.
Hình như trên đòn gánh người đó có vắt ngang
một cái gì.
Tôi lướt vội lên. Trời ơi, mẹ tôi!
Hai mẹ con mừng mừng tủi tủi như gặp nhau ở
cửa âm ti.
Tôi hỏi: "Sao mẹ về muộn thế, cả nhà lo
tưởng phát điên lên". Mẹ tôi cho biết hàng hôm nay bán ở chợ không hết,
người phải đi sâu vào một vài làng lân cận để bán nốt. Rồi khi xuống khỏi đê,
qua cái lạch lớn, thấy có chiếc chiếu trôi, vội tìm cách vớt lên và giặt luôn
bên lạch. Đó là chiếc chiếu còn khá tốt tuy chiều rộng bị xén đi mất một phần
ba.
Mẹ tôi chỉ vào chiếc chiếu phơi trên đòn gánh
nói:
- Về đến nhà thì chiếu vừa khô con ạ. Tối hôm
nay thằng Tư - tên thằng em út tôi - có chiếu đắp ấm.
- Mẹ ơi, "giàu con út, khó con út",
mẹ chẳng để ý gì đến chúng con, chỉ chăm chút cho chú Tư thôi.
Mẹ tôi đi trước, gió ngược chiều nên tiếng tôi
mất hút về phía sau. Tuy nghe tiếng được tiếng không nhưng mẹ tôi vẫn hiểu câu
nói đùa. Người vừa giữ cái chiếu vừa quay nhìn tôi mỉm cười.
Tối hôm đó khi đi ngủ thằng chú Tư được mẹ tôi
đắp cho chiếc chiếu vớt ở lạch. Chân nó thò ra một tí khiến tôi nhận thấy chiếc
bí tất cũ vàng xỉn của tôi, chỗ đầu rách được buộc túm lại để các ngón chân
xinh của nó khỏi "thoát ly" ra ngoài.
Dạo đó chỉ còn một tháng nữa là tết. Tôi lại
có dịp tạm rời trường Luật, đợi đến qua giêng mới có giáo sư. Tôi về vừa đúng
lúc gia đình đương cần nhân công xay thóc giã gạo. Dấn vốn của gia đình tôi còn
đong được năm nồi thóc. Dùng số tiền đó làm tiền đặt mẹ tôi có thể đong về được
tám nồi. Theo như mẹ tôi phác tính mỗi nồi thóc làm, được lợi ít ra là hai ca
gạo, vị chi với tám nồi thóc, chúng tôi sẽ lợi ít nhất là một nồi rưỡi gạo. Cứ
như vậy mà đủ việc liền trong một tháng, nghĩa là vừa đến tết, thì chúng tôi có
thừa tiền đong gạo nếp gói bánh chưng và mua thịt cá để đón một mùa xuân kháng
chiến tương đối huy hoàng.
Chúng tôi ngoại giao ổn thỏa với các nhà có
cối xay cối giã rồi bắt đầu vào việc. Thầy tôi trông nom mấy đứa nhỏ sửa soạn
cơm nước. Tôi và thằng em giai xay thóc trong khi mẹ tôi điều khiển vợ tôi và
cô em gái sàng gạo. Xay hết thóc chúng tôi đã có gạo đem đi giã, giã đến đâu mẹ
và em tôi sàng tấm sẩy cám đến đấy. Trong khi xay thóc tôi nhẩm ôn các đạo
luật, các án lệ để sửa soạn kỳ thi cuối niên khóa. Khi giã gạo với vợ, tôi cùng
nàng thủ thỉ xây mộng tương lai. Ngày kháng chiến thành công hẳn chúng tôi đã
có những đứa con kháu khỉnh, đã trở về quê hương dựng lại căn nhà xinh, sống tự
do bình dị trong tổ ấm gia đình.
Ngày đầu chúng tôi làm được tám nồi thóc với
số gạo dư là hai nồi. Một cụ già ở đấy gật gù nói: "Vạn sự xuất ư nho,
đúng thật. Học trò thì cái gì cũng làm được. Cứ bảo người Hà Nội không chịu
được lam lũ!"
Ngày hôm sau có tin quân Pháp đánh lên Vĩnh Yên.
Những người có thóc giữ lại. Mẹ tôi phải vất vả lắm mới mua được bằng giá khá
cao sáu nồi thóc để chúng tôi có việc làm.
Quân Pháp chiếm Vĩnh Yên. Tiền Hồ Chí Minh sụt
giá vùn vụt. Vẫn số tiền cũ giờ đây chưa chắc mẹ tôi đã mua nổi bốn nồi thóc.
Quân Pháp theo sông đào tiến lên chiếm chợ Me.
Dân chúng xao xác chuẩn bị chạy. Số tiền trong tay mẹ tôi hầu trở thành giấy
lộn. Chúng tôi ăn một bữa quà bánh đúc, lúc giả tiền thấy vợi hẳn túi. Viễn ảnh
những ngày đầu xuân có gạo nếp, có thịt gà, thịt lợn bị giập vùi trong khói
súng và biến thành một điểm mong manh chết đuối giữa cảnh tàn phá rùng rợn của bom
đạn tơi bời cha lạc con vợ lạc chồng, anh em tán loạn mỗi người một phương.
Dạo đó tuy đã có phong trào "rèn cán
chỉnh cơ" nhưng chưa có cố vấn Tàu, chưa có chính sách "ba
cùng", học tập đấu tố nên mặc dầu kinh tế nguy ngập ai nấy vẫn tin tưởng ở
ngày mai huy hoàng của dân tộc, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng dưới sự lãnh
đạo sáng suốt của già Hồ (như lời tuyên truyền phát thanh chiều chiều).
Sang hạ tuần tháng chạp, suốt ngày mưa phùn
gió bấc lạnh như cắt ruột. Không hiểu là vì rét nhiều hơn hay là vì chúng tôi
đã bắt đầu giảm khẩu phần! Chiếc chiếu mẹ tôi vớt ở lạch đắp cho thằng em út đã
rách xơ xác. Trong khi gia đình tôi giật gấu vá vai tìm cách nhường nhau miếng
cơm manh chiếu thì xảy cuộc hỗn chiến giữa quân đội Pháp và quân đội Kháng
Chiến ở chân núi Tam Đảo. Để giữ vững ưu thế quân sự về mình tại mặt trận Vĩnh
Yên, tướng Pháp De L. quyết định hy sinh đoàn quân hắn, và hạ lệnh cho thả bom
tận diệt đôi bên.
(Trong cái điên ba của một cuộc thế lọc lừa
phản trắc, người ta dày xéo lên tình người, điềm nhiên hy sinh xương máu đồng
bào đồng loại nơi này cho quyền lợi thực dân, nơi kia cho học thuyết giai cấp.
Tôi không ghê tởm những bộ mặt lãnh tụ như chúng sao được?)
Từ chân núi Tam Đảo quân Pháp đánh tỏa ra ba
mặt, đồng thời từ hữu ngạn sông Hồng, một toán Lê Dương vượt sang càn quét bến
Rau ở tả ngạn. Dân chúng từ bốn mặt chạy về huyện Yên Lạc, đổ xô vào các làng.
Mẹ tôi bèn thổi cơm hàng gánh đến bán cho họ.
Trong số rất đông các người ở làng Rau mang đồ
đạc chạy đến làng Lũng Thượng, có gia đình ông Lý Cựu vốn là bà con với ông chủ
nhà nơi tôi tản cư. Ông Lý nói chuyện với thầy tôi rất tương đắc nhất là khi
ông biết tôi đương học trường luật thi ra thẩm phán.
Ông nói:
- Tôi có thằng cháu năm nay lên sáu; giời cho
làm người, sau này kháng chiến thành công, tôi nhất định sẽ gởi cháu lên Hà Nội
phiền ông bà và cậu Cả trông nom giúp cho thành thân người.
Quân Pháp sau khi từ chợ Me vượt qua sông Đáy
tiến sâu vào huyện Lập Thạch đốt phá một ngày rồi rút lui về tỉnh. Cánh quân
tiến sang tả ngạn sông Hồng đốt phá bến đò Rau cũng rút lui về vị trí cũ bên
hữu ngạn. Dân chúng chạy loạn lục tục đâu trở về đấy ngay để còn kịp sửa soạn
tết.
Làng Lũng Thượng trở lại yên tĩnh.
Trưa hôm đó mẹ tôi ra phía bụi tre đầu nhà
thấy cong queo dưới hầm trú ẩn một chiếc chiếu hoa cạp điều. Đúng là chiếc
chiếu của một gia đình chạy loạn nào khi về mừng quá bỏ quên.
Mẹ tôi nói: "Thôi thế cũng là giời thương
mà cho nhà mình!"
Đã lâu lắm, đêm đó tôi mới thấy thằng em út
tôi có chiếc chiếu đắp kín chân không trông thấy đôi bí tất buộc túm chỗ rách.
Sáng ra, mẹ tôi cẩn thận gấp chiếu rồi vắt lên chiếc giây thừng căng cao ngang
mái nhà. Thế là từ đây đêm đêm nghe tiếng gió rít và những hạt mưa táp vào đầu
hồi tôi cũng yên chí cho các em đã tạm đủ chiếu nằm, chiếu đắp. Hai ngày sau,
tới buổi sớm ba mươi tết, khi sực tỉnh, tôi thấy không khí trong làng có vẻ
tưng bừng hơn vì những tiếng bàn tán xôn xao xen với tiếng cười ròn rã ngoài
đường xóm. Tôi vùng dậy ra thẳng ngõ. Trời tuy lạnh ngọt nhưng quang đãng và êm
ả vô cùng. Tôi gặp mọi người mắt ai nấy sáng sáng ngời tin tưởng. Thì ra ở khắp
các tường làng đều đã kẻ khẩu hiệu:
"Chuẩn bị tổng phản công".
Đồng bào thủ đô bàn nhau ngày về nhận nhà nhận
cửa, đồng bào địa phương hơi có vẻ ngậm ngùi tưởng như giờ phút chia tay đã
điểm.
Buổi trưa hôm đó ông Lý Cựu từ làng Rau mang
theo vài thứ xa xỉ phẩm làm quà biếu ông chủ nhà vào dịp tết. Ông Lý Cựu có
xuống căn nhà dưới thăm thầy tôi. Câu chuyện vừa xong phần xã giao thường lệ
thì ông ngửng nhìn thấy chiếc chiếu hoa cạp điều vắt ở giây thừng, ông đứng
nhỏm dậy chạy lại kéo tuột xuống nói gọn:
- Chiếc chiếu này của tôi.
Mẹ tôi chợt có một cử chỉ phản ứng của một
người mẹ gìn giữ con trong cơn nguy biến.
Người nói:
- "Ấy chiếc chiếu đó của nhà tôi..."
Mẹ tôi vốn là một Phật tử trung thành. Người
chỉ nói được đến đấy thì lương tâm Phật tử trở lại và người lúng túng quay nhìn
ra ngõ.
Ông Lý Cựu thản nhiên gấp chiếu lại, cắp gọn
nách rồi thản nhiên nói:
- Không, chiếc chiếu của tôi. Tôi mua đôi
chiếu cặp điều từ năm mới tác chiến, một chiếc còn trên kia.
Thì ra đôi chiếu đó, ông Lý mang đến gửi ông
chủ nhà trong dịp vừa qua, rồi những người đến chạy loạn tự động mượn đem ra
giải ở bụi tre nghỉ tạm, lúc về vì chiếu rơi xuống hầm trú ẩn nên họ quên không
trả lại chỗ cũ.
Tuy chỉ một thoáng qua nhận biết sự thể là vậy
nhưng tôi vẫn chưa chịu và tiếp lời mẹ tôi:
- Chiếc chiếu này mẹ mua của một người ở chợ
Lầm. (Ý tôi muốn nói người đó lấy chiếc chiếu ở đây mang ra chợ Lầm bán).
Ông Lý vẫn thản nhiên, thản nhiên một cách
cương quyết:
- Không, chiếc chiếu này của tôi.
Rồi ông cắp chiếu đi thẳng lên nhà. Lúc đó tôi
cũng vừa trở lại với tôi để nhớ ra rằng cuối năm nay tôi đã thi xong, có thể ra
làm thẩm phán. Tôi thoáng nghe phía sau tiếng vợ tôi thở dài rồi quay vào
buồng.
Tối hôm đó khi thấy tôi lấy chiếc chiếu rách
cũ vớt ở lạch đắp cho thằng em út, mẹ tôi chép miệng nói khẽ:
- Thôi, sang giêng trời bắt đầu ấm, vả lại
cũng sắp tổng phản công rồi!
"Vả lại cũng sắp tổng phản công
rồi!" - mẹ tôi nghĩ thật chí lý. Tổng phản công để bờ cõi được vinh quang
độc lập, để mọi người được trở về dựng lại quê hương yên vui.
Tôi hiểu khi đó hầu hết các gia đình khác cũng
như chúng tôi, chịu đựng bao nhục nhằn với những phút sa ngã nhỏ như chuyện
chiếc chiếu hoa cạp điều. Tất cả những hy sinh đó - kể cả hy sinh một chút danh
dự cho sự yếu đuối thường tình của con người - tuy dằn vặt, day dứt mà không
tàn phá nổi niềm vui trong sáng, thanh thản của tâm hồn, vì ai nấy vẫn sống
ngợp hy vọng một ngày mai vinh quang.
Sớm mùng một năm đó mẹ tôi ra chùa lễ. Người
quỳ rất lâu trước bàn thờ Phật. Giọng người thành kính thiết tha cầu đức Phật
phù hộ cho chóng trở lại ỵên bình, gia đình được qua thì đói khỏi thì loạn.
Tiếng người khấn đôi khi nức nở. Tôi nghe nước
mắt như muốn trào ra.
Cộng sản dìm nhân loại trong thiếu thốn để
chứng minh nguyên lý "Vật chất quyết định hết thảy". Chúng lầm! Con
người càng từng trải cảnh thiếu thốn vật chất, niềm tin và đạo đức càng được
hun đúc và tình cảm thêm dạt dào. Sau này khi về vùng quốc gia, rồi di cư vào
Nam tôi còn trải qua nhiều gian lao nghèo túng và nhiều lần bị khinh rẻ, nhưng
dù nghèo túng đến đâu, dù bị khinh rẻ đến đâu, điều đau nhục nhất với tôi vẫn
là chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều, tuy thực tình câu chuyện chỉ giản dị có
vậy.
Cách đây ít lâu khi mua được đôi chiếu hoa
Phát Diệm ở đường Hai mươi về giải lên phản cho con nằm, tôi thấy vợ tôi chợt
úp mặt vào hai bàn tay trước bàn gương. Có lẽ nàng nghĩ đến câu chuyện chiếc
chiếu hoa cạp điều khi xưa. Chuyện đó như biến thành chiếc phao sẫm màu, bất
chấp mọi giông tố vẫn nổi lềnh bềnh trên biển, biển thời gian của đời, biển kỷ
niệm của hồn. Cũng kể từ sau ngày xảy chuyện đó, thái độ tôi đối với người đời
khác xưa nhiều. Tôi thận trọng tránh mọi thái độ hẹp hòi, kiêu ngạo, ích kỷ,
sắc cạnh. Lòng dễ xúc động, tôi thương người như thương chính thân mình vậy.
Tôi thương những em nhỏ sớm phải lăn lưng vào cuộc đời để tự nuôi sống, tôi
thương những người đói khát ham ăn ham uống, tôi thương những hình ảnh lam lũ
một sương hai nắng, những hình ảnh giật gấu vá vai, tôi thương những kẻ thù dân
tộc hôm qua, ngày nay thất thế ngơ ngác đi giữa kinh thành.
Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật
chất ra để giam lỏng linh hồn, ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa
vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có
thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành.
Thấy tôi hằng kiềm chế được nóng giận và nhất
là vẫn mỉm cười, khi ứa nước mắt các bạn bè thân thường khen tôi có thái độ hồn
nhiên của Trang Chu.
Các bạn yêu quý của tôi!
Các bạn có ngờ chăng thái độ hồn nhiên đó là
kết quả của biết bao cảnh cơ hàn mà tôi và những người thân của tôi đã trải
qua, trong đó có chuyện chiếc chiếu hoa cạp điều!