I/
Truyện ngắn dưới đây của
Nguyễn Văn Sâm
kể lại trường hợp tác giả cùng với một nhóm du
lịch Việt Nam về nghỉ ở vùng biển Sihanoukville Campuchia.
Khi tác giả và một người bạn cùng thuê người mát-xa, họ gặp một người phụ nữ Chăm.
Chị ta kể chuyện
là nhà rất nghèo, đi làm thế này để kiếm sống và nuôi ông bố đang nằm viện.
Trong khi Hóa – nhân vật chính - khá căảm động,
thì người bạn của anh tỏ ý không tin, cho là người đi làm thuê kia cũng chỉ là
kiếm câu chuyện làm quà và sẵn sàng nói dối để vừa lòng khách, tóm lại là hạng
người chẳng có gì đáng tôn trọng.
Oái oăm thay là khi đoàn lữ hành tập hợp lại thì người bạn ấy phát hiện ra là mình bị mất một gói tiền đô.
Trong khi cả đoàn chả
biết xoay xở làm sao, thì người phụ nữ Chăm kia chạy tới.
Cầm trên tay số tiền
lớn (tính ra bằng mẹ con chị để dành trong cả năm) chị hồn nhiên trao trả lại cho người mất tiền
– dù biết rằng người khách hàng này vừa tỏ ý khinh thường những người lao động
như chị (vì chị cũng nghe được tiếng Việt).
“Sự nhận ra chân giá trị của những gì bề ngoài có vẻ tầm thường” -
cốt truyện trên đây khá phổ biến và không hẳn đã đặc sắc.
Nhưng đó chỉ là cái khung lồng vào cho dễ theo dõi.
Truyện ngắn đã
được tác giả mang vào nhiều quan sát cũng như nhiều tâm sự.
Tác giả vốn là một giáo
sư văn sử quen thuộc ở Sài Gòn trước 75, rồi trải qua đủ loại đau đớn vất vả
khi vượt biên, và nay dù sống ở hải ngoại nhưng thường vẫn ưu tư trước tình
hình trong nước.
Câu chuyện cảm động về
lòng tốt của người phụ nữ Chăm khơi dậy trong lòng ông nhiều suy nghĩ liên hệ
đến tổ quốc của họ trước đây trong sự so sánh với những diễn biến trong cách
sống của con người và đời sống chính trị của người Việt nửa thế kỷ nay.
Ẩn sau câu chuyện về người phụ nữ Chăm là những suy nghĩ xót xa về
sự sa sút của nhân cách Việt.
II/
CHÚNG TÔI MẤT NƯỚC
NHƯNG CÒN TỰ ÁI - tự ái với nghĩa tự trọng.
Tác giả đã mượn lời
người đàn bà Chăm để đặt cho truyện một cái tên đầy thách thức như vậy
Từ
cái tên ấy ẩn dấu sau những dòng chữ riêng
tôi còn cảm thấy một ý ngầm khác.
Có
phải tác giả muốn lưu ý tuy chúng ta vẫn còn Tổ Quốc, nhưng dân Việt nhiều trường
hợp lại mất dần nhân cách, không còn đáng trọng như một con người và đó mới là
điều đáng xấu hổ, nếu không nói rằng cả một thảm họa không thể cứu vãn.
Một sự so sánh có thể
nảy sinh: giữa một bên là mất nước mà còn người và một bên thì tuy được nước
nhưng cả cộng đồng trước sau rơi vào tình trạng mất nết, hỏi bên nào đáng coi
là bi đát hơn.
Trước câu hỏi đó, thoạt
đầu trong tôi nảy ra một câu trả lời tự nhiên, đất nước vẫn là quan trọng hơn
chứ, rồi những con người hư hỏng hiện nay sẽ có lúc trở thành tốt đẹp.
Truyền thống giáo dục
ở miền Bắc từ mấy chục năm chiến tranh xui tôi như vậy và đến bây giờ báo chí
và nhà trường vẫn sẵn sàng dạy lớp trẻ như vậy.
Nhưng có lúc một con
người khác trong tôi lên tiếng, sự thực là người Việt mình hiện đã trở nên quá
tệ, kể cả những người bên thắng cuộc đang trở nên giàu có so với trước kia và
những người bên thua cuộc đa số là không thích ứng với xã hội mới nên vẫn gặp
nhiều khó khăn.
Tình trạng mất nhân
cách của con người hiện nay là quá sâu sắc đến mức không thể cứu vãn.
Trong hoàn cảnh ấy, tổ
quốc tuy được tiếng là độc lập, là người mình làm chủ nước mình, nhưng sự suy
đồi của con người hứa hẹn trước mắt biết bao tai vạ và những tai vạ ấy sẽ kéo
dài trong nhiều thế hệ.
Giữa hai tình thế này cố
nhiên là không thể chọn lấy một.
Cần nói thêm chuyện
dân Chăm mất nước là chuyện đã vài trăm năm trước. Còn từ thế kỷ XX, các dân
tộc bị thực dân nước ngoài chiếm đóng trên đại thể thường đã có một số phận
khác dù họ không phải hy sinh tới mức làm hỏng con người.
**************
Nguyễn Văn Sâm - Chúng Tôi Mất Nước Nhưng Còn Tự Ái |
Dẫn theo đường link
https://petruskyaus.net/chung-toi-mat-nuoc-nhung-con-tu-ai-n-v-sam/
Trời trưa nắng gắt, không trung phủ một màu sáng xanh đẹp mắt. Gió biển
thổi liên hồi vô bãi vẫn chẳng bớt được khí oi bức của ngày Hè. Hóa buồn cẳng
tới nằm ngửa trên cái ghế dài của một nhà hàng nào đó không cần hỏi chủ. Một
vài người có trách nhiệm quản lý thản nhiên ngó chẳng nói gì. Có thể lệ ở đây
là vậy, có thể họ ngại vấn đề khác biệt ngôn ngữ.
Vẫn lơ đãng ngóng mông
lung ra ngoài biển, đưa mắt lên đầu sóng trắng, Hóa nghĩ đến những ngày vượt
biên biển động xa xưa. Đói khát và mệt lả vì say sóng, đã có lúc chỉ muốn bò ra
be lăn mình xuống nước cho xong đời. Quá khứ đau thương hình như bắt rễ cứng
trong tâm khiến Hóa luôn luôn bị ám ảnh bi thiết khi nhìn sóng biển.
Những thanh niên thiếu nữ vui vẻ lặn hụp nô đùa với nước ngoài kia đáng lẽ là
hình ảnh đẹp Hóa lại nghĩ đến chuyến hải trình vượt chết của mình ngày xưa và
những thân người bất động dật dờ trên nước của những người vượt Địa Trung Hải
gần đây. Hóa lần đó chỉ mong cho tới bến, bến nào cũng được vì lòng nhân đạo
của cả thế giới đang rộng mở, còn những người vượt biển bây giờ tương lai được
chấp nhận vào một nước tạm dung thiệt mờ mịt biết bao!
Họ khác chủng tộc, khác tôn giáo và đã đến tâm trí Hóa bằng những hình ảnh ghê
rợn của chuyện chặt đầu, nổ bom chỗ đông người và hành hạ phụ nữ… nhưng nay
nhìn thảm cảnh họ lớp lớp lang thang trên đường dài cả ngàn cây số tìm đất mới
lập thân sau khi tranh đấu với Thủy thần, Hóa thấy thương họ nhiều, khi so sánh
với tình trạng của mình ngày trước. Cũng bao ngày dật dờ trên biển, cũng đói
khát, như mình trước khi đến được trại tỵ nạn Tanjung Unggat của xứ Hồi giáo
hiền hòa Indonesia. Hóa nhắm mắt lắc đầu để kéo tâm trí về với hiện tại. Quá
khứ là quá khứ, không ích lợi gì để quá khứ nhảy vô xâm chiếm hiện tại làm xấu
đi cuộc đời ta.
Những người đàn bà
Chăm quần áo sắc màu, rực rỡ, đầu bịt khăn mỏng, che hết ót, phủ kín phân nửa
tóc phía trước khiến khuôn mặt họ đượm chút gì đó huyền bí, lũ lượt qua lại
trước du khách, mỗi người xách một thùng đồ nghề, cắp theo một cái ghế nhỏ cũng
màu mè xanh đỏ, trao đổi nho nhỏ với nhau bằng tiếng của một dân tộc từng là đế
chế to lớn bây giờ đã không còn quốc gia. Họ chia nhau xề vô cạnh những du
khách, như đã được huấn luyện từ trước của một đạo quân, mau lẹ mời mọc nhưng
không gây ồn ào hay nì nèo mè nheo. Họ cũng không cười giởn hay chưởi bới gây
gổ như Hóa thường chứng kiến ở những người bán hàng rong trên các bãi biển quê
hương sinh trưởng của anh. Hóa mỉm cưới với mình. Cũng hay, họ vẫn còn tiếng
nói, vẫn còn dân tộc tính trong trang phục, trong cách hành xử. Tốt quá, đáng
ca ngợi quá đi chớ!
Một người đàn bà tuổi đâu khoảng chừng mới quá bốn mươi, đặt thùng đồ nghề
xuống kế bên anh, đưa tay xoa xoa cái ghế anh đương nằm, nói bằng thứ tiếng Anh
ít ỏi, giọng Kampuchia:
‘Năm đô la. Massage một giờ!’
Hóa hiểu chị ta muốn gì. Nghề đấm bóp cho du khách trên bãi biển Sihanoukville
do người Chăm dẫn đầu. Hóa tò mò cố tình tìm một người địa phương làm nghề nầy
nhưng không thấy. Cũng như nghề nail ở Mỹ, tìm một người thợ nail Mỹ chẳng khác
nào mò kim đáy biển.
Chưa thấy hứng khởi trong việc cho một người khác phái đấm bóp mình nơi bãi
biển lộ thiên, Hóa lễ phép lắc đầu. Người đàn bà hơi thất vọng, nhưng cũng mỉm
cười nhấc thùng đồ nghề lên, bước qua khu bên cạnh. Hóa hơi ngạc nhiên khi thấy
mình không không nhận được cái nhìn dè bĩu, khinh thường, sẵn sàng gây chiến như
thường thấy nơi những bãi biển thân thương quê hương sanh đẻ của anh.
Thoải mái trong sự tương giao ngắn ngủi đó. Hóa nghĩ rằng mình sẽ trở lại du
lịch nước nầy trong tương lai. Họ không thể nói chuyện nhiều với du khách nhưng
thân thiện trong một sự chịu đựng lễ phép đáng thương. Những người đàn bà Chăm
có, Kampuchia có, đầu đội một cái tràn lớn trên đặt thiệt nhiều những con tôm
xú bự xộn, hấp dẫn, đỏ au, rảo qua lại trước mặt du khách như một đoàn diễn
viên trong một buổi trình diễn nào đó.
Thấy khách lạ lẫm ngó theo những tràng tôm ngon lành, người hướng dẫn địa
phương của đoàn nói với Hóa bằng vẻ tự hào:
“Họ buôn bán nhưng không nói thách và làm giá trên trời đâu, ông có thể mua mà
không sợ bị chém chặt. Có điều là nếu mình ra chợ mua về thì có thể ngon hơn vì
chắc chắn tôm sẽ tươi hơn”.
“Chúng ta đông người có thể làm vậy, nhưng khách Tây thì chắc họ mua thoải
mái?”, một người trong đoàn tò mò hỏi.
“Vâng! Họ ăn hoài, có vẻ thích lắm. Trưa hơn chút nữa họ ra tắm biển nhiều hơn.
Ăn trong nhà hàng mắc hơn gấp đôi nên họ thích mua từ mấy người nầy”. Người
hướng dẫn đoàn đáp sành sõi.
Người đàn bà mời Hóa phút trước bây giờ đã có một ông khách Tây đồng ý để đấm
bóp. Chị đặt cái ghế xuống đất, sửa soạn chỗ ngồi bên cạnh, đối diện với khách
hàng. Hóa quan sát công việc làm của chị ta qua gương mặt khắc khổ, đen đúa
nhưng tỏ ra chăm chú và có trách nhiệm. Hóa tưởng tượng đến chuyện một người
chạy đua đã quá tuổi, biết rằng mình sẽ về chót trong cuộc thi nhưng vẫn cầm
ngọn cờ đến cùng để chứng tỏ sự quyết tâm cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Từ ý
tưởng đó Hóa ngộ ra nhờ đâu dân tộc nầy đã có một thời rạng danh trên hoàn vũ
và đã để lại những công trình làm sững sờ mấy dân tộc đến sau. Giờ đây tuy mất
danh hiệu một quốc gia nhưng họ vẫn không mất dân tộc tính dầu cho phải sống
rãi rác trên nhiều nước, ở đâu cũng bị liệt vào dân thiểu số gần như bị chánh
quyền bỏ quên…
Người con gái Chăm trẻ mời Hóa như người đàn bà hôm qua đã mời. Xiêu lòng trước
đôi mắt to lay láy của cô ta, Hóa nhận lời. Hai người trao đổi bằng tiếng Anh.
“Xin lỗi, tôi phải kêu cô là gì?”
“Xin ông cứ gọi tôi là Chanta Oungma”.
“Chào cô Chanta, cô làm công việc nầy lâu chưa?”
“Tôi bỏ học và bắt đầu việc nầy đã ba năm nay từ khi cha tôi bị bịnh tim nặng”.
Người bạn cùng đi trong đoàn nằm ghế bên cạnh nói chỏ sang bằng tiếng Việt:
“Nàng ca bài con cá cố hữu của các kiều nữ. Nhưng anh không có cửa đâu. Đừng bẻ
kèo với bà nhà mà mang họa”. Ngừng một lúc lấy hơi, anh tiếp theo: “Coi chừng
cái khăn trùm mặt đội đầu, đó là thứ bùa mê thuốc lú”.
Người con gái Chăm sửa lại thế ngồi, hình như miệng mỉm cười nhè nhẹ.
Hóa hơi bất nhẫn, ứng khẩu ngâm gián tiếp trả lời người đối thoại:
Sẽ phá hết những thành trì cách biệt,
Ta phiêu lưu,
Trong sóng mắt mỹ nhân.
Mắt cướp hết tinh thần,
Còn hồn với phách, vẫn chịu chìm trong hoan lạc… (NVS)
“Thôi đi ông đừng mơ tưởng mông lung. Họ những người bùa mê tràn một bụng”.
“Đem về Mỹ nếu tôi không bị sanh nhằm thế kỷ…”
Người bạn xong phần đấm bóp đứng dậy trả tiền, bước đi còn đưa ra nụ cười hóm
hỉnh:
“Đừng lãng mạn mà bị bỏ đói nha ông. Đi phượt trên Sapa sờ màn hình lồi còn hơn
màn hình phẳng nầy, chỉ có ngó thôi!”
Người con gái Chăm lại đổi thế ngồi để sang bóp nắn chân kia của Hóa.
Đáng lẽ anh ta nên kềm chế những lời nói đó, không cho bay ra dầu cô gái Chăm
kia có hiểu hay không. Nói như vậy là cái tâm còn trọng thị, còn khinh khi mà
không dựa trên thực tế. Hóa theo dõi cử chỉ và ánh mắt của cô ta coi xem phản
ứng có gì khác vì nghe nói ở tụ điểm du lịch phía Đông người dân để sinh tồn
thường học thêm tiếng Việt. Vẫn như thường, hai bàn tay thoăn thoắt chà mạnh
bắp chuối của Hóa vốn cứng đơ sau mấy ngày đi bộ nhiều, trèo lên dốc cao ở mấy
tụ điểm tham quan. Ôi đôi tay ngọc ngà những nàng cung nữ của Chế Mân, ôi đôi
mắt rớt tim người đời của nàng Mỵ Ê đáng kính, ôi dáng nữ thanh tao của những
nữ binh Chế Bồng Nga oai dũng! Nàng ngồi đó thản nhiên, chăm chú vô công việc
khiến Hóa nghĩ đến một số tiền hơi nhiều hơn bình thường để ‘boa’ cho người làm
dịch vụ. Mây trời lãng đãng trên đầu, sóng biển rì rào ru Hóa vô giấc ngủ chập
chờn, mộng mị.
Cha tôi là thương binh trong cuộc chiến thời kỳ cách mạng của ông Pol Pot. Cha
nói với mẹ là đi theo cách mạng để giải thoát cảnh nghèo cho mình và tạo công
bình cho người khác. Nhưng rốt cuộc cha mất một cánh tay mà dân tộc tôi nghèo
vẫn nghèo. Không ai có một quyết định nào về trường hợp của cha. Chúng tôi
không có tiếng nói ở đâu hết, tuy không bị ăn hiếp rõ ràng nhưng bị bỏ quên từ
trên thượng từng chánh trị cho tới lớp dưới cùng của hành chánh địa phương.
Cha bị thương tật nên không hành nghề đánh cá như những người đồng bào tôi sanh
sống dọc trên bờ vịnh Thái Lan của đất nước nầy. Cha đi làm rẫy… Lặn lội trong
sình lầy, dầm mình trong vùng nước ngập dơ dáy để kiếm thứ gì đó về cho chúng
tôi bốn đứa con còn quá nhỏ của cha. Rồi cha bị bịnh lạ: Mũi chảy máu, đau nhức
nhè nhẹ nhột nhột, nhưng nghẹt mũi thường xuyên, nhảy mũi tối tăm mặt mày cả
tháng chịu không nỗi, tới bịnh viện bác sĩ cho thuốc qua loa. Cuối cùng đau quá
cha ở lì trong bịnh viện, lúc nầy người ta mới xét kỷ, lấy được từ sâu trong
hóc mũi là một con đỉa dài hơn ngón tay.
Bây giờ cha lại bị tim, đi phải có người dìu đỡ và nói không rõ lời.
Một người tour guide Kampuchia nãy giờ ngóng mỏ nghe, cao hứng xía miệng vô
bằng tiếng Việt:
“Ma bắt”.
Cái cười vui dòn tan của cô gái làm Hóa tỉnh giấc lơ mơ của buổi trưa có gió
mát hiu hiu hòa với giọng nói êm dịu bên tai. Chi tiết về cha cô ta lờ mờ trong
trí giữa thực và mộng. Thấy không còn hứng thú để được phục vụ nữa Hóa dúi cho
cô ta tấm giấy hai mươi đô rồi chạy ùa xuống biển tắm mát.
Đoàn lữ hành lên xe gần hết, xe sắp sửa rời bánh mà nhiều người trong đoàn
không vui. Anh chàng ba hoa hôm qua làm mất xấp tiền hai ngàn đô, lúc thì nghi
rằng mình làm rớt trên xe khiến cho cả đoàn như thấy mình là tội phạm, lúc thì
nói mơ hồ rằng chắc mình mất trong phòng ngủ… Hai người ở chung phòng coi bộ
hơi giận, im lặng lầm lì. Anh chàng cũng chẳng vừa gì cứ xác minh rằng trước
khi mình về phòng chiều qua kiểm lại tiền vẫn còn…
Bỗng hai mẹ con cô gái người Chăm chạy mau tới trước đầu xe của đoàn, Chanta
nói chuyện bằng tiếng Miên với người tour guide rồi nói lớn bằng tiếng Việt đại
ý để xác định lại người mất tiền và số tiền.
Chanta nói với tôi bằng thứ tiếng Việt rất sõi, rõ ràng:
‘Nhờ cái tờ giấy quảng cáo tour bọc ngoài gói tiền nên em tới đây. Số tiền nầy
bằng tiền hai mẹ con em để dành trong cả năm.’
Tôi nheo mắt tỏ ý khen ngợi cô ta. Chanta nắm tay tôi giật giật, hóm hỉnh:
“Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ…”
Tôi mắc cở vì lời nhận xét của người đồng hành hôm qua và hơi bối rối về mấy
câu thơ con cóc hứng chí của mình đọc lên khi tưởng nàng không hiểu. Té ra cô
ta nghe hết, hiểu hết mà đã làm bộ như không.
Có người con gái trẻ hơn chạy tới, nói gì đó một tràng, Chanta móc tiền đưa,
phân bua với tôi: “Tiền gom lại để trả cho bịnh viện, cha tôi trở bịnh mệt
hơn”.
Tôi ngó thẳng vô đôi mắt đẹp:
“Mắt đẹp mà lòng cũng đẹp”.
“Người Chăm chúng tôi mất quốc gia nhưng không để mất lòng tự trọng, càng không
thể để thất bại trong tư cách làm người”.
Từ giã có những bịn rịn đời người chưa dễ được. Xe lăn bánh, trong xe có tiếng
xì xào, bàn tán, đánh giá, kẻ mừng hên người chê xui. Có tiếng thở dài cười
gượng của người ngồi kế bên tôi!
Biển khổ đời mênh mông vô hạn, biết sống thì cái khổ sẽ ít hơn. Số tiền đó đối
với gia đình nàng Chanta thì nhiều, Chanta biết giá trị của mình nên đã biến nó
thành nhỏ, quá nhỏ nữa là đằng khác.
“Chúng ta chưa mất quốc gia, nhưng từ lâu một số đông đã mất lòng tự trọng”.
Uể oải, bần thần… Hóa tự hỏi chẳng biết ở vào trường hợp Chanta mình có được
hành động đẹp như thế không. Và anh hình như không chắc chắn rằng nàng Chanta
có thật hay chỉ là tinh thần của một dân tộc đã mất nước hóa hiện ra cảnh báo
người của một dân tộc trên bước đường suy vi.