Bài trả lời phỏng
vấn này từng mang cái tiêu đề
Văn học miền Nam 54-75 trong cách
nhìn của VƯƠNG TRÍ NHÀN hôm nay và đã được đưa trên blog cá nhân của tôi 2009 cũng như trên
một vài trang mạng khác
----
Khoảng 2005 -2008, tôi từng có một vài cuộc trò chuyện với nhà phê bình văn học
Thụy Khuê trên đài RFI về các vấn đề văn học.
Một trong những cuộc trò chuyện đó --trò chuyện về văn học miền Nam 1954 1975 -- được tiến hành từ 6-2008 lại đã được chị Thụy Khuê ghi lại, và đưa trên trang mạng của chị vào dịp 12- 2009 tức một năm rưỡi sau
http://thuykhue.free.fr/mucluc/vuongtrinhan.html
.
Sự gợi ý mà nhà phê
bình văn học dành cho tôi qua những câu hỏi thật đã giúp tôi điểm lại hiểu biết
cho đến lúc ấy và hình thành một số suy nghĩ về văn học miền Nam sau đó đã được
một số bạn bè đồng cảm và chỉa sẻ.
Nay đã 12 năm xin một
lần nữa kính trình bạn đọc.
Một số ý tưởng cũ của
tôi nay đã bị vượt qua, nhưng vẫn được giữ nguyên trong bài.
Chỉ xin các bạn khi đọc tha thứ cho một điều là ở giữa chừng câu chuyện đối thoại dưới đây, tôi có thông báo là đang có một kế hoạch dài lâu cho tương lai. Bạn nào có biết về tôi hẳn biết đó là một lời hứa hão, 12 năm đã qua tôi vẫn giữ thói quen chạy xô linh tinh và đến nay do ốm đau lại càng không nên nhắc lại lời hứa cũ. Nhưng lúc xem lại bài viết để đưa trên blog hôm nay, tôi muốn xin phép để nguyên, nhớ lại để gọi là làm vui một chút trong lúc tuổi già cô độc, các bạn chắc không nỡ trách.
Nói chuyện với
nhà phê bình Vương Trí Nhàn Trong những năm gần đây, chúng tôi cố gắng đưa vấn đề Văn
học miền Nam trở lại văn đàn, bởi có một nhu cầu đến từ những người thực sự
yêu văn chương ở trong nước muốn tìm hiểu về những tác giả và tác phẩm đã bị
chính thức loại trừ sau 30/4/1975. Trong chiều hướng đó, hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu
cùng quý vị, tiếng nói của nhà phê bình và nghiên cứu Vương Trí Nhàn, một
trong những nhà văn miền Bắc đã không ngừng tiếp cận với văn học miền Nam từ
thời kỳ phân chia Nam Bắc đến ngày nay. Qua những nhận định và phân tích của Vương Trí Nhàn, chúng
ta sẽ thấy sự tiếp cận văn học giữa hai miền chưa bao giờ thực sự gián đoạn,
và riêng ông, ông mong được đóng góp tích cực vào việc mở rộng con đường hợp
nhất hai nền văn học Nam Bắc để có thể vẽ nên toàn diện bộ mặt văn học Việt
Nam trong thế kỷ XX. * Thụy
Khuê: Thưa anh, trước hết xin
hỏi anh là hiện nay có dấu hiệu nào cho chúng ta thấy văn học miền Nam đã bắt
đầu hiện diện lại trên địa bàn văn học ở trong nước hay chưa? Vương
Trí Nhàn: Lâu nay, Văn học miền Nam như cứ
tồn tại một cách lấp lửng ở Hà Nội, lúc xuất hiện, lúc có vấn đề nổi lên, tuy
không thành vấn đề lớn, vấn đề liên tục. Thời gian gần đây vì có chuyện một
số sách của Dương Nghiễm Mậu được in lại, sau đó lại bị phê phán, thành ra có
người nghĩ rằng nó vẫn đang bị đẩy lùi. Tôi thấy không phải, mà thực tế
khoảng mùa thu năm ngoái, năm 2007, báo Văn Nghệ mở ra mục giới thiệu một số
tác phẩm của văn học Sàigòn trước 75 và đã in một số truyện ngắn. Và đúng kỳ
30 tháng tư năm 2008 này, báo Văn Nghệ có ra số đặc biệt, lần đầu tiên đưa
vào sưu tập mười truyện ngắn in ở Sàigòn trước năm 75, đấy là một điều đáng
chú ý. Theo tôi, trong xã hội đang có nhu cầu muốn nhìn lại, tiếp cận lại bộ
phận văn học này, tôi thấy đây là điều cần thiết và cũng muốn góp sức vào đó. T.K.: Truớc khi đi xa hơn nữa, xin hỏi anh về tình
hình trước năm 1975, ở Hà Nội thời ấy đã có ai ít nhiều đã đọc Văn học miền
Nam hay không, và nếu có, chuyện đó đã xẩy ra như thế nào? V.T.N.: Ở Hà Nội trước năm75, các nhà văn từ Nguyễn Tuân,
Nguyễn Thành Long, rồi Xuân Diệu, Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu...
hay lớp trẻ bọn tôi như Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, hay một số bạn khác ít nhiều
đã đọc Văn học miền Nam, đã có một sự chia sẻ, tìm thấy cái gì khác lạ mới mẻ
trong đó và đã liên tục tìm kiếm tiếp. Ngay trong chiến tranh, hình như vẫn
có sự đối thoại giữa hai bên. Có lần trên báo Văn Nghệ năm 1956, tôi đã tìm
thấy một mẩu tin nhỏ trong đó ông Nguyễn Tuân, thay mặt cho giới văn nghệ Hà
Nội, viết thư cho những người viết văn ở miền Nam, nói rằng chúng ta sẽ cùng
lập một đoàn đại biểu để đi dự hội nghị nhà văn ở Tân Đề Ly bên Ấn Độ và
chúng ta sẽ chờ cơ hội sáng tác để góp phần vào nền văn hóa dân tộc. Lời lẽ
rất chân thành và rất trân trọng, tôi cho rằng ngày nay dư luận nên biết lại
chuyện đó. Đôi lúc có cảm tưởng là trong lòng Hà Nội này, người ta chỉ nghĩ
rằng những người viết văn ở Sàigòn trước kia toàn là kẻ thù cả, toàn là người
bỏ đi cả. Không phải thế. Mà sự thực là ngay trong chiến tranh đã có những
đối thoại, trao đổi, -- tôi cho là một lúc nào đó chúng ta cũng phải trở lại
lịch sử câu chuyện đó nữa. Gần đây tôi
thấy nhiều ý kiến thống nhất rằng đánh giá thế nào thì đánh giá, có thể phê
phán, có thể nhận xét, nhưng phải công nhận rằng văn học miền Nam là một bộ
phận của văn học Việt Nam thế kỷ XX và ở đó có rất nhiều vấn đề, nhiều đóng
góp và phải có nó nữa thì văn học Việt Nam mới là chính mình. Trên nguyên tắc
thì không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ còn làm thế nào cho đúng, cho tốt nhất, sự
thực là không thể không làm được. Tôi cho là thời gian tới, việc này phải
được triển khai một cách cụ thể, tuy rằng sự thực cũng có rất nhiều khó
khăn. T.K.: Thưa anh, qua những lúc nói chuyện với anh, tôi
biết là anh đã đọc khá nhiều văn học miền Nam từ lâu rồi nhưng hình như trước
đây anh ngại phát biểu về vấn đề này. Ngày nay, anh trở lại vấn đề này một
cách công khai, vì sao như vậy, chắc là phải có một lý do sâu xa? V.T.N.: Thời gian gần đây, sở dĩ tôi trở lại Văn học miền Nam,
lý do rất đơn giản thực ra là do đời sống trong nước có nhiều khó khăn, không
phải chỉ là vấn đề kinh tế, mà sự thực, đối với tôi, một trí thức, một người
viết văn, điều làm tôi đau lòng nhất là nhìn thấy con người Việt Nam hiện nay
có cái gì đó như là suy thoái, tha hóa, trở nên hung hãn, càn rỡ, ham hưởng
thụ và mệt mỏi, chán ngán, dễ làm bậy. Trước vấn đề này, tôi thấy những
người viết văn phải thực sự suy nghĩ và lý giải cho được. Trong khi tìm cách
lý giải, tôi đi tới ý tưởng là con người hôm nay là hệ quả của chiến
tranh, xã hội Việt Nam là xã hội hậu chiến. Có người bảo chiến tranh
chấm dứt đã 30 năm nay rồi; nhưng theo tôi, thực sự xã hội Việt Nam vẫn còn
đang phát triển theo quy luật của chiến tranh và nếu chúng ta không vạch rõ
những đặc điểm của con người hậu chiến, không trở lại cuộc chiến tranh, thì
không thể hiểu được đời sống trước mắt và không thể gọi ra căn bệnh của con
người hiện nay được và cũng không thể góp phần chạy chữa và giúp con người
sống tốt hơn được. Tôi tìm thấy ngay, những điều mà tôi suy nghĩ, ở Văn học
miền Nam, cái phần mà tôi đã biết, đã đọc từ trước. Chúng ta đều biết rằng:
trước 75, Văn học Việt Nam tồn tại ở hai mảng là Văn học miền Bắc và Văn học
miền Nam. Nhưng có lúc trong tài liệu nghiên cứu, người ta chỉ thấy có Văn
học miền Bắc thôi, còn bộ phận kia coi như không có. Hiện nay các sách văn
học sử, hoặc là không viết gì, hoặc viết mấy câu qua loa có tính chất phê
phán, nhưng sự thực là trong thời gian 45-75, rõ ràng chúng ta có hai nền văn
học cùng tồn tại và hai nền văn học đó bổ sung cho nhau, mỗi bên có giá trị
riêng và giá trị đó không thể bỏ được. T.K.: Anh nghĩ như thế nhưng vẫn còn nhiều người nghĩ
ngược lại anh, tại sao vậy? Và anh có lập luận nào để bảo vệ ý kiến anh? V.T.N.: Sở dĩ đôi lúc người ta khó công nhận Văn học miền Nam
là hình như họ nghĩ như thế này: tức là nếu công nhận Văn học miền Nam thì
[Văn học] miền Bắc coi như là thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là
hỏng, là vứt đi. Tôi nghĩ "cách nghĩ chỉ có một [nền văn học] thôi"
là không phải, vì như vậy sẽ gây ra nhiều rắc rối trong việc tiếp cận nhau.
Tôi cho rằng chúng ta có cả hai [nền văn học] và hai bên bổ sung cho nhau.
Tôi nghĩ độ một trăm năm sau, nếu muốn nhìn lại xã hội Việt Nam nửa sau thế
kỷ XX, muốn hiểu con người sống như thế nào thì cần phải đọc cả hai. Nền văn
học miền Bắc, tôi tạm gọi là văn học của chiến công, nền văn học lôi cuốn
người ta đi vào cuộc chiến tranh, còn nếu nói có nền văn học nào diễn tả được
con người trong chiến tranh thì tôi thấy nó rõ trong phần văn học miền Nam.
Qua những tiểu thuyết tôi đã đọc, những bài thơ của Nguyễn Bắc Sơn hay những
tác phẩm của Nhã Ca, của Phan Nhật Nam... tôi hình dung ra được là chúng ta
đã trải qua một cuộc chiến tranh ghê gớm như thế nào, con người Việt Nam đã
thay đổi thế nào qua cuộc chiến tranh đó. Tôi cho rằng, nếu trong truyền
thống, chúng ta có mảng văn học chức năng, động viên thôi thúc con người hành
động, ví dụ như Bình Ngô Đại Cáo hay thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, thì Văn học
miền Bắc nối truyền thống đó rất rõ. Ngược lại, Văn học miền Nam nối tiếp
truyền thống văn học của Nguyễn Du, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, mảng nói về
những đau khổ của con người và sự bơ vơ, khó khăn, bất lực, không biết đi lối
nào trong đời sống này và cả tính bi thương, đau đớn của con người. Mảng đó
tôi thấy rõ ở Văn học miền Nam đầy đủ hơn. T.K.: Trên
cương vị một nhà nghiên cứu và phê bình văn học, nếu đặt Văn học
miền Nam vào mạch chung của thế kỷ XX, anh thấy nền văn học này đã giữ
địa vị nào và đã làm được gì cho nền văn học dân tộc của chúng ta, nói chung? V.T.N.: Chúng ta biết rằng thế kỷ XX là một bước chuyển của Văn
học Việt Nam, trước đó chúng ta có nền văn học theo mô hình Trung Hoa, ở đó
có hai bộ phận chính, một gần với dân gian, một là văn học chức năng, văn dĩ
tải đạo. Sang thế kỷ XX, văn học chúng ta hiện đại hóa tức là vận động theo
quy luật văn học phương Tây, đến năm 1945 đã khá hoàn chỉnh. Sau năm 45,
chúng ta có hai mảng văn học như tôi nói ở trên tức là Văn học miền Bắc và
Văn học miền Nam. Văn học miền Bắc đi theo luật riêng của nó, một mặt, nó
tiếp theo văn học tiền chiến, một mặt, có phần như đi lại từ đầu, tức là đi
từ văn học dân gian lên và bỏ qua những kinh nghiệm của thời tiền chiến. Tức
là có phần đứt gẫy, có phần nối tiếp. Ngược lại, chính Văn học miền Nam, rõ
nhất là thời kỳ 54-75, theo tôi là sự tiếp nối tiền chiến tự nhiên hơn đầy đủ
hơn, với những vấn đề mà các nền văn học Đông Nam Á thường thấy là sử dụng
quan niệm văn hóa phương Tây, nói lên được đời sống con người đương thời, có
sự nối tiếp những di sản cũ, có sự tiếp nhận một cách bình thường đối với ảnh
hưởng quốc tế. Tôi muốn đăc biệt nhấn mạnh cái ý Văn học miền Nam nằm trong
một mạch quan hệ liên tục với thế giới
(trong khi Văn học miền Bắc, trước 75, gần như cô lập, chỉ có mạch nối tiếp
với Trung Hoa và Nga; nhưng ngay cả Nga và Trung Hoa lúc đó cũng đứng cô lập
với thế giới). Từ đây, có thể nói: Văn học miền Nam là sự tiếp nối bình
thường của văn học tiền chiến, trong điều kiện xã hội hậu thực dân, khi người
Việt Nam bắt đầu phần nào nắm được vận mệnh của mình và muốn tự biểu
hiện tự nghĩ về mình thông qua văn học. T.K.: Về bản chất Văn học miền Nam mà anh đã đọc
khá nhiều tác phẩm, theo anh, những giá trị nào là cơ bản của nền văn học
này? V.T.N.Ở đây có hai
giá trị cơ bản của văn học, giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Tôi hiểu
giá trị hiện thực như thế này, đọc Văn học miền Nam trước 75, tôi hiểu con
người Việt Nam trong chiến tranh, chúng ta thấy ở thành thị, quân đội nước
ngoài tập trung đến, mang lại bao nhiêu đảo lộn; còn nông thôn thì nay thuộc
phe này, mai phe kia, con người bị chiến tranh xua đẩy đi khắp mọi nơi. Những
bức tranh hiện thực này hiện lên khá rõ qua nhiều tác phẩm. Có lần tôi
đọc cuốn Bướm khuya của Túy Hồng, một cuốn sách không thuộc cái mạch chính của
nhà văn này nên ít người để ý. Và chị có biết không, tôi lại có cảm giác là
cái truyền thống mà các nhà nghiên cứu Hà Nội gọi là hiện thực phê phán
cái truyền thống đó được tiếp nối theo một cách rất mới mẻ. Hiện thực nói ở
đây không phải là cái hiện thực mà chúng tôi pử Hà Nội quen nghĩ, tức là ở đó
phải có giai cấp nọ, giai cấp kia, phải có địa chủ, tư bản, nông dân - quan
niệm hiện thực đó nó cổ rồi, nó khô cứng - mà là không khí hiện thực chung,
hiện thực ngột ngạt, đau đớn, có lúc như ma quái, người ta không thể nắm
được, nó nằm ngoài người ta, người ta đành phải chấp nhận nó và cảm thấy ở
trong một môi trường mà mình bị nung nóng lên, mọi hành động và suy nghĩ của
mình bị sai lệch hẳn đi. Thì bức tranh về xã hội chiến tranh như thế, tôi
thấy rất nhiều trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam nhất
là qua các nhà văn nữ; ở
phần tốt nhất của họ, ở phần họ đúng là nhà văn, thì họ đã nói lên được thực
trạng xã hội, ở đấy, đọc thấy rõ hơn, và có cảm tưởng như trở lại không khí
của một đất nước, đã trải qua ba mươi năm quá đặc biệt. Đặc biệt trong đó có
một chủ đề mà tôi cho là chủ đề nhân đạo như trên vừa nói tức là nền văn học
có sự thông cảm với con người, chia sẻ với con người. Có một số người hay
hiểu nền văn học nhân đạo là văn học thương yêu con người, ca ngợi con người,
đấy cũng là một cách hiểu. Nhưng theo tôi, điều quan trọng bậc nhất của chủ
nghĩa nhân đạo là hiểu con người, thông cảm với con người, thấy tất cả những
sự phức tạp, cái ghê gớm, cái kỳ lạ của con người, nhất là chia sẻ với con
người trong mọi trạng thái nhân thế của nó. T.K.: Xin anh kể thêm một vài tác giả hay tác phẩm
nào trong nền Văn học miền Nam đã làm cho anh căn cứ vào đó để nói lên
những điều anh vừa nói. V.T.N.: Tôi nhớ là trong những cuốn sách của nhà văn Dương
Nghiễm Mậu thì tôi thấy rất rõ những lúc, trong thời kỳ đầu, Dương Nghiễm Mậu
có nhiều suy nghĩ rất trừu tượng, trong Cũng đành, về vấn đề tồn
tại như thế nào, mình có quyền hành động gì, sự lựa chọn đúng hay sai, mình
đúng như thế nào, bản mệnh đã bị dày vò thế nào, đấy là phần đến rất sớm ở
Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền và một số người khác. Về sau, khoảng sau
72, tôi được biết là Dương Nghiễm Mậu cũng có những tiểu thuyết như Con
sâu, cũng đã diễn tả tâm trạng đời sống con người trước 75. Rất tiếc là
tôi chưa được đọc cuốn này nhưng tôi được đọc nhiều bút ký ngắn của Dương
Nghiễm Mậu tả những chuyến đi theo các đơn vị quân đội đến Tây Nguyên, ra
Quảng Trị và nhân vật các sĩ quan trẻ trong đó, tôi thấy diễn tả được hết
những đau đớn của con người, chứng kiến đất nước mình, lớp trẻ bị chết, bị
thương, mất hết sự thiêng liêng của đời sống và bơ vơ không biết làm thế nào. Một
tác giả nữa, mà khoảng năm 72, bọn tôi ở quân đội cũng rất xúc động, xôn xao
cả lên, là cuốn của Phan Nhật Nam, không phải cuốn nhiều người hay nói tới,
cuốn Mùa hè đỏ lửa, diễn tả không khí chiến trường rất ác liệt,
mà là cuốn trước đó, cuốn Dấu binh lửa. Theo tôi, Dấu
binh lửa có giá trị rất lớn, vì nó cho thấy sự tan vỡ tâm hồn, tan
vỡ đời sống tinh thần của người thanh niên lớn lên trong một đất nước chiến
tranh. Từ chỗ là một người đầy nhiệt huyết, muốn biết, muốn hiểu, muốn đóng
góp, muốn làm cái gì cho dân, cho xứ sở, biến thành người hư hỏng, chán ngán,
không còn là mình nữa và biết là mình lội sâu vào trụy lạc, hư hỏng và con
người trở nên trâng tráo, chai lỳ, bất nhẫn, Phan Nhật Nam kêu lên là mình
không còn là mình nữa, mình đã đánh mất mình rồi, xã hội đã làm hỏng mình
rồi. Tất cả những điều đó đều đọc được trong Dấu binh lửa.
Tôi nhớ là khi tôi nói chuyện với những nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyễn Minh
Châu, các anh đều công nhận rằng đọc cuốn sách này thấy rất rõ sự vận động
tâm lý, vận động đời sống tinh thần của con người trong xã hội miền Nam như
thế và bọn tôi ghi nhận ngay cách diễn tả, cách viết rất trực tiếp và khả
năng sử dụng tiếng Việt rất nhuần nhị của Phan Nhật Nam ở một tác phẩm
có tính chất tự thú như thế. Sau này nhà văn Bảo Ninh có viết Nỗi
buồn chiến tranh; đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi lại nhớ
đến Dấu binh lửa và tôi có đưa cho anh Bảo Ninh xem, Bảo
Ninh nói với tôi đại ý nếu anh đọc cuốn Dấu binh lửa này trước
thì có thể sẽ viết khác đi một chút. Riêng tôi giữ mãi cảm tưởng rằng đây là
một trong những cuốn sách viết về chiến tranh đáng ghi nhớ và cho rằng ở chỗ
đó, nó thể hiện đầy đủ những đóng góp của Văn học miền Nam, tức là ghi nhận
được trạng thái nhân thế, tinh thần của con người một thời, tất cả những đau
đớn, vật vã của con người trong một hoàn cảnh phi nhân văn và chính từ đó
chúng ta có thể giải thích tất cả những biến động trong đời sống từ sau 75
đến nay. T.K.: Thưa anh, có thể nói là sự trở về với Văn học
miền Nam của anh còn có một lý do khác, đó là từ khi về hưu anh có nhiều thì
giờ đọc hơn và anh cũng đã khám phá ra nhiều cái mới. V.T.N.: Về hưu, tôi mới có điều kiện đọc thêm, một trong những
ham thích của tôi là đọc sử của mình viết về những thời kỳ cũ. Thật ra ở Hà
Nội người ta viết sử rất kém, từ lúc tôi đi học đã... không có sử. Rất xấu hổ
phải nói là một người viết văn, trí thức như nhiều bạn bè tôi, mà chưa bao
giờ tiếp xúc một cách nghiêm túc với những bộ sử rất quan trọng của chúng ta
như bộ Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Việt Sử Thông Giám Cương Mục hay
những bộ sử sau này như Đại Nam Thực Lục bao quát cả triều
Nguyễn chẳng hạn; hay sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, thời người Pháp sang tổ chức
lại xã hội của mình. Tất cả những trang sử ấy, bọn tôi biết quá ít, sự thực
là chúng tôi có những định kiến sai lầm, những thành kiến, rồi cứ nuôi những
thành kiến đó mà cứ tưởng đó là chân lý. Gần đây tôi có được may mắn là tự
tìm ra được niềm vui đọc lại những cái đó và từ mảng sử ấy, tôi hiểu được đời
sống hôm nay. Thế thì Văn học miền Nam cũng là một bộ phận, một di sản của
dân tộc, nó như những bức ảnh, những cuốn phim, ghi lại đời sống một thời. Muốn
làm tốt công việc của mình, chúng tôi rất cần lùi xa lại quá khứ và từ khoảng
cách xa như thế, nhìn chung cả lịch sử tinh thần của dân tộc, chúng ta sẽ có
được những khái quát để đóng góp xây dựng đời sống trước mắt. T.K.: Anh có thể cho biết sơ qua về công việc mà anh
muốn làm? V.T.N.: Khi đã gần bảy mươi tuổi thì người ta thường có một
mong ước là tổng kết lại hoạt động của đời mình, theo nghĩa nào đấy phù hợp
với sức lực. Trước đây dù có mấy chục năm làm việc nhưng nó cũng như là một
bản nháp lộn xộn, bây giờ cần tìm xem cái gì là chính, là quan trọng nhất. Có
thể, tôi tự nhủ, nên tính tới cuốn sách về văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trên
con đường ấy, tôi nghĩ là chúng ta phải đánh giá lại Văn học tiền chiến, để
thấy nó như là biểu hiện văn hóa dân tộc trong nửa đầu thế kỷ XX, còn sang
nửa sau, phải kể cả mảng Văn học miền Bắc và Văn học miền Nam. Nghĩ tới một cuốn sách như thế, tôi biết rằng sự
chuẩn bị của mình còn quá ít, rồi thấy có những thiếu sót rất cơ bản, thí dụ
khả năng có thể tiếp xúc được với những ngành nghiên cứu mới của phương Tây
thì lại không có, chỉ mầy mò thôi. Nhưng có lẽ việc quan trọng nhất là mình
phải thay đổi quan niệm, phải cởi mở, cởi mở theo nghĩa không phải để cho qua
mọi việc mà chính là để xác thực với thực tế hơn, gần với sự thực, gần yêu
cầu xã hội hơn. Cùng với việc trở lại văn học miền Nam tôi mong muốn cả những
người viết văn ở Hà Nội, ở Sàigòn trước đây và bây giờ một số ở nước ngoài,
tôi nghĩ rằng chúng ta nên có một thời gian nào đấy để nghĩ lại và vượt qua
thành kiến cũ của mình, tạo được không khí mới mẻ trong đời sống văn hóa, văn
học của dân tộc trong thế kỷ XX. Tức là chúng ta phải chấp nhận thực tế như
nó có, chúng ta phải thay đổi. T.K.: Theo anh, cái mà các anh phải thay đổi ở đây cụ
thể là gì? Và tại sao lại phải thay đổi? Quá khứ đã cho những kinh nghiệm như
thế nào? V.T.N.: Đối tượng vẫn thế thôi, nhưng sự tiếp cận của chúng tôi
hôm qua đã thất bại thì hôm nay phải đổi cách nhìn, phải có những công cụ
mới, cái nhìn mới. Trong thực tế đời sống nghiên cứu văn học, văn hóa ở Hà
Nội cũng đã có như thế: trong một thời gian dài ở Hà Nội Văn học tiền chiến
coi như rất yếu kém, nhiều hư hỏng. Những tác giả như Vũ Trọng Phụng không
được in lại, Nguyễn Công Hoan cũng có những sai lầm, Ngô Tất Tố cũng hạn chế,
Tự Lực Văn đoàn coi như vứt đi hết, chỉ có Thạch Lam được yêu mến một chút
thôi, chứ còn tất cả đến bây giờ vẫn coi lãng mạn là xa rời đời sống, nhiệm
vụ dân tộc. Từ lúc trước 75 hiểu như thế, đến bây giờ thì khác hẳn, bây giờ
lại bắt đầu nhìn Văn học tiền chiến như một niềm tự hào của văn hóa, văn học
dân tộc. Rõ ràng chúng tôi đã thay
đổi, tôi muốn nói rằng sự thay đổi ấy cũng sẽ đến trong cái nhìn Văn học miền
Nam trước 75. Tôi thấy, ví dụ như người Nga, họ cũng nhìn nhận văn học hải
ngoại của họ, người Trung Hoa cũng tìm thấy ở Văn học Đài Loan, Văn học Hồng
Kông những giá trị. Ở Đài Loan có những nhà văn như Bạch Tiến Dũng mà các
sách văn học sử của Bắc Kinh coi là tác gia quan trọng của nền Văn học Trung
Hoa thế kỷ XX. Tôi nghĩ rồi những quan niệm ở Hà Nội về Văn học miền Nam phải
thay đổi theo hướng ấy. Với những gì không thích, người ta hay bảo có những
hạn chế. Tôi thấy ai mà chẳng có hạn chế, ví dụ bây giờ đọc bất cứ cuốn văn
học sử nào in ở Hà Nội, đều thấy nói rằng Nguyễn Du có nhiều tư tưởng hạn
chế, nhưng không phải vì hạn chế ấy mà tất cả chúng ta bỏ, không say mê Kiều
và cảm thấy Kiều là phần thân thiết, gần gũi và là một tiếng nói tâm hồn của
chúng ta. Tôi thấy trong việc trở lại Văn học miền Nam, vẫn còn nhiều thành
kiến cũ, vẫn có những ngần ngại, cố chấp làm chúng ta khó thay đổi. Tôi thấy
cần phải có sự giải phóng tư tưởng, và phải có những tiêu chuẩn rất cơ bản,
thí dụ như tiêu chuẩn vì quyền lợi chung của dân tộc, vì tính chất nhân đạo,
tính chất nhân văn của con người. Những tiêu chuẩn ấy mới là những nguyên lý sâu
xa của văn học và trên những cơ sở như thế tôi tin rằng việc này sẽ được tiếp
tục tốt hơn. T.K.: So sánh sinh hoạt văn học hiện nay ở trong nước
với sinh hoạt văn học miền Nam trước 75, anh có thấy điểm tương đồng nào? V.T.N.: Gần đây tôi thấy rõ ràng là văn học ở trong nước hiện
nay đang có nhiều điểm giống như Văn học miền Nam trước 75, kể cả sự phát
triển văn hóa đại chúng, kể cả sự học đòi nhiều lúc xô bồ, tuỳ tiện đối với
phương Tây, cái mệt mỏi của con người, nỗi băn khoăn của người trí thức để có
một nền văn học khác đi, so với yêu cầu của xã hội hiện đại. Nhiều lúc ở Hà
Nội này, tôi đọc và tôi cảm thấy những hiện tượng quanh mình tôi đã gặp một
lần đâu đó, và tôi nhớ lại là trước năm 75 tôi đã đọc ở Sàigòn, bên cạnh Bách
Khoa, bên cạnh Văn, đã có những nhốn nháo, nhố nhăng, tùy tiện rất buồn cười
mà ngay lúc bấy giờ nhiều người đã kêu rồi. Ngay ở phương diện ấy, Văn học
miền Nam cũng đã làm bước hội nhập đi trước so với văn học trong nước .Các nhà văn trẻ hiện nay đang muốn thay
đổi, họ cũng không muốn viết, không muốn sáng tác như những người đi trước kể
cả như bọn tôi, nữa; thế nhưng sự chuẩn bị không có. Sự chuẩn bị này, dĩ
nhiên lỗi không phải ở lớp trẻ mà là ở lớp người đi trước, chúng tôi đã không
góp phần chuẩn bị cho họ, thành ra, ngay ở phương diện này, các nhà văn trẻ
cũng có thể tìm thấy trong các tác phẩm của các nhà văn miền Nam, những ví
dụ, những bài học, để học theo, những bài học hữu ích cho công việc của họ. T.K.: Chắc anh cũng đồng ý với tôi là mặc dù giới trẻ
trong nước hiện nay không có cơ hội trực tiếp tiếp xúc với Văn học miền Nam,
nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ, tìm tòi kỹ thì chúng ta vẫn thấy có một vài ảnh
hưởng nào đó của Văn học miền Nam trên một số tác giả trẻ hiện nay. Vậy anh
có thể lý giải cụ thể thế nào về hiện tượng này? V.T.N.: Cụ thể thế này:Văn học miền Nam vẫn có cách xuyên thấm
vào đời sống theo cái cách bình thường văn học ở đâu cũng vậy. Ví dụ như thơ,
các hội thơ gần đây ở Hà Nội đã bắt đầu đưa Thanh Tâm Tuyền lên thành một tìm
tòi của thơ thế kỷ XX ở Việt Nam và trong dư luận miệng tức là trong các cuộc
trao đổi, mọi người trông vào các tìm tòi của các nhà thơ ở miền Nam trước 75
như những bước khai phá tiếp tục Thơ Mới, để tìm tới một giai
đoạn mới của thơ và để thơ Việt Nam hội nhập thế giới. Tôi cho là thơ của các
nhà thơ ở miền Nam trước 75, trong chừng nào đó, nó đã giải quyết việc này,
một cách liên tục, một cách đại trà rộng rãi, và đã đạt được mức thành công.
Nó sẽ góp phần thúc đẩy văn học trong nước. Tôi thấy tình trạng trong nước
bây giờ rất trì trệ và có cái gì như là bế tắc, người ta muốn tìm nhưng không
biết tìm gì và cái tìm ra thì thiếu điều kiện cơ bản cho nên không phải là
cái mà người ta cần. Tôi thấy ngay đến cả các vấn đề - như thế nào
là tiểu thuyết? văn xuôi là như thế nào? chấp nhận phương Tây như thế nào? -
thì các nhà văn trẻ bây giờ cũng có thể đọc lại các nhà văn miền Nam trước
75. Thế rồi cách thể hiện cá nhân như thế nào? quan hệ cá nhân, xã hội thế
nào? họ cũng có thể tìm thấy trong các nhà văn miền Nam cách thể nghiệm của
mình. Giới nghiên cứu chúng ta cũng thấy điều đó, chính chị Thụy Khuê đã có
lần viết trong bài Văn học miền Nam, nhắc tới việc xây dựng Văn
học miền Nam ở Sàigòn suốt 54 - 75. Có những nhóm người trẻ lúc bấy giờ nhận
rõ qua giai đoạn tiền chiến rồi, qua giai đoạn Pháp cai trị rồi, nay cần có một
nền văn nghệ của nước mình. Việc mà nền Văn nghệ miền Nam làm được: thứ nhất
là tiếp nhận di sản cũ, nối tiếp truyền thống các nhà văn cũ và thứ hai là
tiếp nhận một cách bình thường văn học, văn hóa nước ngoài, coi đó là nguồn
góp ý cho mình, coi đó là cách mình có thể tựa vào để phát triển. T.K.: Xin hỏi anh về di sản văn học. Theo anh thì Văn
học miền Nam có vai trò gì trong việc bảo tồn Văn học tiền chiến và trên mặt
nghiên cứu văn học, theo anh, miền Nam có để lại thành quả nào mà anh
thấy vẫn còn hữu ích cho giới làm văn học hiện nay không? V.T.N.: Với di sản Văn học tiền chiến, phải nhận trong một thời
gian dài, ở Hà Nội để mất đi rất nhiều, nhiều tài liệu bị cất vào thư viện,
sau đó không ai đọc, cuối cùng không biết ở đâu. Trong khi đó thì chính là ở
Sàigòn, nhiều nhà nghiên cứu, nhà văn đã bắt đầu có sự nối tiếp, chuẩn bị,
sưu tầm tài liệu, đã góp phần làm dài di sản chung của chúng ta. Gần đây, tôi
rất thích thú và đã nhờ mua được cuốn sách
bao quát rất tốt về văn học sử dân tộc, đó là cuốn Việt Nam văn học
sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ. Những người có theo dõi văn
học Sàigòn, đều biết hồi ấy có nhiều người rất nổi trên phương diện nghiên
cứu văn học và biên khảo, ông Phạm Thế Ngũ chỉ là một nhà giáo và cuốn sách
mà tôi nói chỉ là một cuốn giáo trình; nhưng đây thực sự là một cuốn sách
viết rất nghiêm túc về Văn học Việt Nam nói chung, bằng chứng là cuốn sách đó
đã được đưa vào Từ điển văn học, do nhóm của Viện Văn Học chủ
trì. Hoặc cuốn sách về triết học của Trần Thái Đỉnh, cuốn Triết học
hiện sinh cũng đã được in lại. Hôm qua tình cờ tôi đọc lại
cuốn Văn học miền Nam Tổng quan của Võ Phiến, thì ông Võ
Phiến cho biết cuốn đó có thời gian là cuốn bán chạy nhất, năm nó ra đời ở
Sàigòn. Điều đó tôi rất thông cảm bởi vì hiện nay ở Hà Nội cũng thế thôi có
một khao khát tiếp nhận những cái mới của phương Tây, tiếp cận những tinh hoa
của họ, tôi thấy việc đó thì Văn học miền Nam đã đi trước và để lại những
thành quả mà bây giờ chúng tôi không dễ gì vượt qua. T.K.: Thưa anh, nếu đưa được nền Văn học miền Nam trở
lại văn đàn thì anh thấy điểm nào có thể giúp ích ngay cho sinh hoạt văn học
hiện nay trong nước? V.T.N.: Nhìn chung, tất cả những phần đóng góp của Văn học miền
Nam đối với nền văn học dân tộc, hứa hẹn nhiều bài học quý báu cho việc xây
dựng nền văn nghệ của chúng ta. Thí dụ việc xây dựng ngôn ngữ văn học. Hiện
nay trong đời sống Hà Nội, ngôn ngữ giao tiếp thông thường... rất kinh khủng.
Hôm nọ có người viết bài về việc giữ chủ quyền trong ngôn ngữ, ý nói đang có
cuộc xâm lăng ngôn ngữ từ tiếng Anh, đến tiếng Hán xâm nhập vào tiếng nói rất
loạn xạ, và ngay cả ngôn ngữ văn học của những người cầm bút hiện nay cũng
hết sức lộn xộn nhếch nhác, lâu lắm không có người viết văn hay. Trong lúc
đó, tôi đọc lại Văn học miền Nam, với những ngòi bút bậc thầy, ở phần hay
nhất của mình, thì Mai Thảo có những trang viết hết sức văn học, rất hay, Võ
Phiến có giọng văn riêng, cho thấy một đời sống tinh thần không thể có ở thời
tiền chiến được. Rồi rất nhiều nhà văn khác, như Dương Nghiễm Mậu, Phan Nhật
Nam, v.v... cả những nhà văn tương đối phổ thông hơn như Thụy Vũ, Nhã Ca,
Trùng Dương, Túy Hồng v.v... ở họ, đều là những thể nghiệm ngôn ngữ mà đi sâu
hơn thì ở đó nó có cái mạnh của tiếng nói Hà Nội, có cả cái mạnh của văn hóa
miền Nam, của Sàigòn lục tỉnh, tôi thấy hai điều đó được kết hợp nhuần nhụy
trong những nhà văn, một số nhà văn di cư, mang lại cho ngôn ngữ văn học của
Văn học miền Nam một mực thước và sau đó đạt cái chuẩn mà đến bây giờ bọn tôi
vẫn trông vào đó để học hỏi. Hoặc trong việc dịch những tác phẩm văn học nước
ngoài sang tiếng Việt, tôi thấy cách xử lý tiếng Việt của các dịch giả là
điều bọn tôi phải nể và phải tiếp nhận học hỏi và phải công nhận có những
đóng góp. T.K.: Thưa anh, câu chuyện đã khá dài, trước khi từ
giã, anh thấy có những điều gì anh muốn nói thêm về việc đưa Văn học
miền Nam trở lại văn đàn, điều mà anh thật sự hết lòng mong muốn thúc
đẩy. V.T.N.: Hiện nay tôi bị ám ảnh bởi điểm là chúng ta đến chậm
quá, làm muộn quá. nếu muốn quay trở lại Văn học miền Nam, ngoài khó khăn tôi
nói trên về tư tưởng, cách làm việc, thì khó khăn vật chất rất cụ thể như tư
liệu thì mất rất nhiều và không ai chuyên tâm. Lòng người thì vẫn tâm lý hậu
chiến tức là vẫn bị ảnh hưởng ngày hôm qua, không tách ra được để nhìn đối
tượng văn hóa, bình tĩnh làm công việc một cách tốt hơn. Gần đây trên mạng
talawas cũng đã trích đăng lại một só tác phẩm cũ của Văn học miền Nam, ở bên
Mỹ, nhiều tác phẩm cũ được in lại, nhưng tôi vẫn cảm thấy chưa đủ. Thỉnh
thoảng trao đổi với một vài nhà nghiên cứu khác cũng thấy thế. Chúng tôi có
cảm tưởng mỗi người nắm một tí, tức là mỗi người chỉ nắm được phần của mình
thôi, còn sự thực những người nắm được bao quát chung thì không có và hiện
nay tài liệu cũng rất thiếu sót. Cụ thể những bộ báo, sách quan trọng như tập
Bách Khoa, Văn... thì không biết ở trong và ngoài nước người ta còn bao nhiêu
và làm thế nào đưa nó lên thành tài liệu nghiên cứu cho tất cả mọi người. Làm
được như thế thì cũng đòi hỏi một nỗ lực rất lớn, văn học mạng hiện nay rất
phát triển nhưng không ai làm việc lưu trữ này, dự trữ tài liệu, để thúc đẩy
việc nghiên cứu Văn học miền Nam. Trong quá trình nghiên cứu văn học, tôi rất
muốn có dịp nào đó chúng ta cùng trở lại Văn học miền Nam, đọc lại nó để hiểu
nó. T.K.: Xin thành thật cám ơn anh Vương Trí Nhàn. Thụy Khuê thực hiện Chương
trình Văn học nghệ thuật RFI, ngày 14 và 21/6/2008 © Copyright Thụy Khuê 2008 |