23/5
Tối đến D2053 công binh. Đơn vị vừa bị đánh , nó đánh
trúng đường ống dẫn xăng rồi cứ thế nó tống bom bi nổ chậm vào. Một cậu ba lô
cháy, áo cứ quăn như giấy, những mép bị bạc hết, và các túi thì rã ra, chực rơi
xuống. Lính, một cậu bị mảnh bom trúng đầu nói lảm nhảm một mình lại toàn là
những câu ghê người. Nó bảo nó làm một cú đòn, báo cáo lên đoàn 500, nói rằng
đây bệnh tư tưởng hết, cả tham mưu trưởng, cả các trợ lý, chỉ có mình nó, với
lại chính trị viên trưởng yên tâm mà thôi.Thấy một tay cán bộ, nó bảo ông này
chỉ vớ vẩn, vệ sinh mà làm qua loa thế kia, thì anh em nó làm thế nào?
Lính xô bồ, ầm ĩ, như bầy quạ, không có việc gì cả cũng cứ nháo nhác ầm cả lên. Cậu nào ăn cũng hỗn, bước cũng mạnh, quần áo cũng bẩn thỉu, ở hậu cứ mà mặt vẫn câng câng. Sao mà lạ thế không biết.
Lính xô bồ, ầm ĩ, như bầy quạ, không có việc gì cả cũng cứ nháo nhác ầm cả lên. Cậu nào ăn cũng hỗn, bước cũng mạnh, quần áo cũng bẩn thỉu, ở hậu cứ mà mặt vẫn câng câng. Sao mà lạ thế không biết.
Trong này thật ra cũng y như Hà Nội. Tình hình về cơ
bản khác rồi, mà ban lãnh đạo tư tưởng cứ thích duy trì theo kiểu cũ, vẫn chiến
tranh, vẫn lạc quan, trong khi vẫn khổ sở.
Bao giờ những ngày chết tiệt cuối chiều này hết đi.
Bao giờ để bắt đầu những ngày mới, đầy hào hứng và phấn khởi, tuy rằng rất cực
đấy, nhưng hoàn toàn tin tưởng, và đầy phấn khởi làm việc.
Hồng kể về một nhân vật: ”Phương - Phương “miu”, mặt
rỗ chằng chịt, ở nhà việc gì nhiều tiền thì làm, cả xe bò, cả quai búa. Vào bộ
đội, ai nói cũng chửi. Đi ném cá về, gọi mọi người ăn. Hồng không dám ăn sợ nói
không được (những cậu nói nó đừng ném,
kể cả B trưởng cũng bị nó chửi ngay). Đơn vị đi B, dùng lại, Phương mang quần áo
tưới xăng đốt hết.
- Tôi không cần gì cả.
Người ta cứu được vài cái.
Lúc ra phá bom, rất dũng cảm, nhưng cũng hay chửi, và
hay phá. Một lần thấy một ông B trưởng đánh bộc phá, chỉ biết đào sâu xuống để chôn.
- Ông đéo biết làm rồi.
- Không, đây là kiểu kỹ thuật.
- Đéo kỹ thuật gì cả.
Quả nhiên, ông kia đặt thế nào bộc phá khoét xuống
lòng đường một hố, như hố bom mà chẳng được việc gì. Nó lại càng chửi trong khi
làm tiếp. Gần đây viết đơn lên trên: Tại sao tôi công tác tích cực, phá bom rất
dũng cảm mà không bao giờ được khen, không được phong hạ sĩ.
Những con người này mới thực là con đẻ cuộc chiến
tranh này.
Rừng Trường Sơn là đây. Trên là núi và dưới là khe.
Những con suối trường chinh, ngấm ngầm mà hung hãn, gặp núi cản cũng xô cả núi
mà đi, đất đỏ đục ngầu rồi cũng trong xanh trở lại.
Đường lượn ven núi, gặp núi thì thành ngầm, rồi đường
lại vượt lên, nhìn con suối dưới kia róc rách. Lên cao thì đường gặp núi. Đất
sẵn sàng lở. Khi có máy bay lượn, mình theo thói quen, chúi vào bên núi thì một
cậu bảo: “Ra ngoài này đi anh, núi lở
xuống bây giờ”.
Đứng trên những mỏm đường cao nhất, thấy toàn cảnh
trọng điểm, lượn lên lượn xuống. Hút xuống dưới, ba cô thanh niên xung phong đi
lủi thủi nhỏ dần. Ngẩng lên cao, mãi kia là đỉnh đồi đất đỏ, những cây cao lớn
đổ vật cả xuống, như một người ngã xóng xoài, tay ở dưới mà chân ở trên. Cỏ
chung quanh đã lên xanh, cây thì vẫn còn trơ một cái màu gỗ nhạt huếch…. Có lúc
nghĩ rằng tại sao lại rủ nhau chui vào những miền rừng làm gì nhỉ. Ở đây hoang
vắng quá, những ngã ba, những “cua” những trọng điểm không có tên, toàn gọi
bằng số, cây số 43 năm trăm, cua 12, trọng điểm 21, ngầm com măng ca, chỉ có
một ngầm gọi là Đông phương hồng.
27/5
Lên trọng điểm - Barie 91 nằm dưới một ngách đá lớn
ven đường, mưa nước trên đường tràn xuống như cống. Một ông ngồi trực máy.
Chiến sĩ nó trực 1/2 đêm một. Cán bộ thiếu, trực suốt thế này. Gặp bên cạnh một
cậu vô tuyến lảm nhảm như một thứ đồng thuộc.
Ở chiến trường mới thấy chiến tranh là phung phí sức
người sức của vô hạn. Từng nghe đồn công binh mỗi anh kéo về lán hàng bao tải
đường, hàng hộp pôlyvitamin để ở đầu giường. Một xe cử đi trực về, cậu Kỷ mang
3 cái kéo, Bình mang 1 cái hộp xơ ranh. Như vậy là 1 xe quân y đổ. Hôm sau giữa
trọng điểm, còn thấy một cậu được cử đi nhặt xoong.
Trọng điểm nghĩa là gì? Nghĩa là một vùng 5-7 km bị
B52 phát hoang, rừng nhiệt đới mất hết cả màu xanh, chỉ còn những thân cây,
những tảng đá. Sau mấy ngày mưa, cái màu xanh thống trị cũ vội nhú lên mấy mầm
lá chuối non, vậy mà vẫn không lại được với màu đỏ của đất. Tôi theo một xe ATN
vào kéo một din ba cầu, cậu lái xe mặt hớt ha hớt hải, sợ hãi, lính ATN mắng
như tát nước khi cậu ta lái quặt vào một hốc cây như thể muốn trèo lên núi. Xe
ATN cứ băng băng đi. Oàng một tiếng đằng sau: chỗ xe ATN vừa phải lách qua,
công binh đã đánh bộc phá trong màn khói đen ánh lên một tia lửa đá chạm phải
sắt - ấy là những cậu cán bộ của 2053 quần cộc, mặc cái áo cổ vuông, ngoài một
lượt giáp sắt, tức là những mảnh đuy - ra bọc vải. Lũ ấy như thổ công ở vùng
này, chỗ nào cũng ngó chỗ nào cũng nhìn. Nhìn một hố bom nước vàng nhợt nhạt,
một cậu cắt nghĩa: đấy là nó ngấm thứ chi ri (poly)vi ta min, nên vàng như ký ninh vậy.
Hàng giờ, theo những quy luật nhất định, máy bay địch
đến cắt toạ độ. Trọng điểm nát nhừ ra. Mùa mưa đến rồi, bên kia đường 12, người
ta nói mưa trắng đường, xe phải theo vết xe trước mà chạy - “Nắng bổ nhào, mưa
rào toạ độ” - Cuộc sống nhọc nhằn quá đi, vất vả quá đi. Ở trên hầm chỉ huy,
ông trung đoàn phó chỉ thị cho từng việc cụ thể: C2 cử người ra trinh sát đoạn
đường, phá nốt chỗ hố bom cho xe đi. Các cậu bên kia liệu mà chớp thời cơ về
bên này thay ban. Như vậy là 10 giờ 10 phút rồi, hết giờ toạ độ của nó, bây giờ
cho ATN vào, lôi xe mắc ra. v.v.
Lúc các xe ATN vào kéo xe ở trong, tìm mãi thì cậu lái
máy húc bảo: Có thằng lái xe đấy, nó đang tìm cáp, mà quẩn quanh tôi lại không
thấy. Cậu Thôi, lái ATN bảo: Phải chờ lái xe. Nhưng trực ban thấy cần phải kéo
ngay. Gọi một cậu ở tiểu đoàn xe - đúng hơn phải gọi là một ông, vì trông đã
già quần ống thấp ống cao:
- Ông lái xe phải không?
- Chết cái tôi lại không biết lái chứ - ông ta chối.
… Đến lúc xe kéo ra, chính ông ta lại rót xăng, xếp
khung mui bạt, lại quản cái xe đâu vào đấy. Không tìm đâu ra cái nét mặt ngượng
nghịu lúc trước.
Tại sao lại có sự đun đẩy lảng tránh vậy? Vì chỉ một
lúc sau, khi tôi về đến đội xe máy, lại đã nghe người đến gọi xe ô tô lên chở
thương binh. Trên đó có thể một cậu bé nào đó mà cũng có thể là một ông già 39,
40 ở đội công binh thổ công, có đủ mọi thứ của cải đường sữa của chiến trường
kia, đã bị toạ độ. Quyền sổ ở ban chỉ huy binh trạm ghi thương binh và liệt sĩ
trong ngày, lúc sau, tôi thấy vứt ở trên sạp, chắc là lại vừa ghi thêm một cái tên
mới.
Nhớ lúc ở cao điểm, có lúc định hỏi ông tiểu đoàn phó:
Nếu cần phải hy sinh cái máy húc với lại mây cậu công binh ra đánh bộc phá, thì
anh cho ai đi? Có lẽ ông ấy sẽ cười mình mất thôi, và đùa đùa tôi không cho ai
đi cả, để khi nào yên hãy đi. Tuy nhiên, ở đây khó nói là mạng người quý hay
cái xe quý hơn. Chẳng phải là vì một cái din ba cầu đó, người ta cho
công binh ra, để rồi mấy cậu công binh bị dây mìn đó sao?
Tôi chưa bao giờ sống cái giây phút của một người có
lệnh phải đi vào khu vực đó. Nếu không, tôi sẽ nghĩ như thế nào nhỉ? Muốn nói
đi nói lại một nghìn lần: cuộc chiến tranh yêu nước này là cần thiết. Nhưng
cũng thật là một tai vạ cho thế hệ tôi, cho dân tộc tôi, một tai vạ của thế
giới trong thế kỷ. Liệu biết quy cái tội đó vào ai? Chẳng nhẽ chỉ quy vào một
vài tên tổng thống có máu hiếu chiến. Tại sao lại có Hít le, có Mút–xô- li-ni -
như vậy là bản thân nhân loại có một tội tổ tông truyền, mình không cai trị nổi
mình, mình làm khổ mình.
Tôi đã sa vào những điều viển vông chăng? Tôi đã đi
vào một thứ chủ nghĩa nhân đạo hư vô chăng? Nhưng quả thật, phải nghĩ như thế
để mà bình tâm thấy chiến tranh như là một điều chết tiệt có thực. Sao thèm một
ngày hoà bình của những năm trước 1964 của Hà Nội… Mặc dù, sống giữa đường sữa,
thịt lợn đổ cả đi, đạn bắn liên hồi kỳ trận tha hồ, dù pháo sáng xếp 5 múi một
trong ba lô, hẳn ai cũng mong về hậu phương sống cuộc sống mè nheo ích kỷ và
khốn khổ, những buổi xếp hàng mua bia “như đi mít tinh”, những chủ nhật mua củi
mệt bã người, dành dụm từng tí củi, mẹ bảo con: Mày xem trong gầm còn thanh củi
nào không, nếu không phá cái thang giường ra làm củi đi nếu không có cái đun là
chiều nay nhịn đấy.
Và cái này thì ai cũng biết rồi: nếu mang tất cả tiền
của này đổ vào xây dựng hoà bình! Cuộc sống sẽ khác sao, ai biết được.
Niềm tức giận của tôi ư? Cũng giống như mọi người thôi
hãy chôn nó đi. Hãy biết sống như mọi người. Sung sướng gì một đứa trẻ sinh ra đã không may như tôi:
mẹ chết, ốm lên đậu gần chết. Bây giờ lắm lúc cũng hơi xấu hổ: mặt rỗ thế này,
có cô nào yêu được? Thà hồi ấy chết quách cho xong. Nhưng cứ nghĩ đến thế
thì lại tự bảo dẫu sao thì sống vẫn vui
hơn, sống để đua với đời, sống mà nhỡ biết đâu lại có thể hơn người, yêu được
những cô gái ngoan và giỏi.
Khi dân tộc cũng không chết được mà phải sống, nó sẽ
mang những vết sẹo suốt đời trên người như mình vậy.
28/5
Ông K. một CTV phó tiểu đoàn chợt hỏi đồng
chí nhà báo quê ở đâu hề? Hà Bắc à, tôi đóng mãi ở bến Phả Lại đấy, Phả Lại có
cái mậu dịch thương nghiệp bán khối thứ đấy...
Những
người như thế, đi đâu mà chẳng gặp.
29/5.
Những ngày ở Hương Đông nắng nóng, mần tịt cả
người, lúc nào cũng buồn ngủ. Trưa, ăn cơm về, mình nằm lăn ra giường ngủ thiếp
đi, thỉnh thoảng, thỉnh thoảng chừng nhiều mồ hôi quá lại chợt thức dậy, lấy
khăn lau một lượt mồ hôi nhưng không có khăn, lấy luôn cái áo lau mặt.Trong
khi đó, Duật và cô Nhót đang tập đánh máy. Duật đến hấp dẫn, lúc nào cũng có chị em đến với nó, đứa ăn cơm xong đến xin ngụm nước, đứa đến mè nheo cái nọ cái
kia.
Những
ngày ở đường 12 này, lại chỉ có mưa, nước suối đỏ bẻm. Và hôm nay hiu hiu gió,
như một ngày đầu thu, như một thứ rét nàng Bân, như “những ngày vui nghĩ lại
thấy ngùi ngùi". Nhớ các anh ở nhà (tuyệt nhiên là không thấy lại một cô
nào mà cả cô Điệp), nhớ các bạn bè, nhớ công việc. Trước lúc đi, Xuân Quỳnh
bảo:
- Đi
viết thư về... Chính những lúc đi xa độ 1, 2 tháng, một mình, nghĩ cũng buồn
lắm.
Cố
nhiên, mình lại phải bảo mình rằng ở Hà Nội, nhiều lúc mình vẫn thấy cô quạnh,
những lúc chán nản: "Giờ đến ai thì có nhà nhỉ?". Đi hết mình, đi hết
những nỗi buồn, và thấy con đường xa lắc. Hân bảo giữa nỗi buồn cô đơn và nỗi
buồn một người có vợ, tuỳ anh chọn lấy một.
Đến
Hương Đô, rất quý các cô gái ở đấy, cô Bàng, cô Nhót. Cô Băng Tâm có con mắt
rất sáng va nụ cười dịu dàng. Cô Huệ, cô Xuân bên Tổng đài 500, đeo cái vòng
vào cổ, người như dễ thương hẳn lên. Đến Binh trạm bộ, các cô ở đây, cô Thu cô
Nhuệ mến khách và dịu dàng làm sao. Còn ở
các đội TNXP thì – sau cái non trẻ vụng dại - sao quá nhiều những con
người yên lặng, chậm rãi, mệt mỏi, đầy dục vọng?
Ông Vũ
Cao thường bảo tôi: Cái thằng này bao giờ cũng lý tưởng, sách vở. Xem thằng này
với thằng Đỗ Chu sau này lấy vợ thế nào?
... Tôi
thì tôi tự nghĩ vẫn trên con đường hành hương đi tìm phụ nữ. Lại thấy bổng lên
những câu thơ của Aragon:
Chỉ
có nàng thôi mới xinh đẹp dịu dàng
Nàng
hiện lên như tháng mười đỏ thắm
Hôm nọ
bảo với Duật rồi, câu thơ của Drunina
"Trong ngây dại của tâm hồn phụ nữ - Em chỉ cần nương tựa xuống vai anh"
có phải chỉ nói về phụ nữ đâu, mỗi người nam giới đều có lúc cảm thấy cần phải
nương tựa xuống bên một người phụ nữ nào đó.
Phát
hiện lớn nhất là trong lần trước, thấy con người lớn lên trong chiến tranh. Đi
sâu vào tuyến, lần này tôi nghĩ khác đi: chiến tranh sẽ tạo ra một lớp người mà
tất cả thời gian, năng lực, chí hướng là tập trung vào việc giết, phá hoại, làm
lấy được, nghe lệnh, trói tình cảm của mình lại, rồi khi cần thì lại bùng lên
một cách rất là man dại. Chiến tranh tạo ra lớp người ấy, chiến tranh qua rồi
nhưng lớp người ấy còn mãi.
Đại đội
TNXP: Nhà ở làm hàng ngàn công mà không xong, gian nhà rách nát, tạm bợ, trên
căng tăng, dưới căng bạt, chung quanh là đồ lề, những tấm chăn chiếu quét đất
tha hồ cho chân người dẫm lên.
Bộ đội
thì có chuyện công binh, dỡ hầm của cao xạ, hai bên to tiếng với nhau. Nghe nói
có lần phải dùng đến cả cách quăng nhau xuống sông.
Bao
nhiêu cô con gái đã vào hoả tuyến này. Ở bên Lào, con gái phải lấy tay gạt đuổi
những con nòng nọc đen đi lấy nước tắm rửa. Một lần đang tắm thì nó đánh rất
gần. Mới đầu các cô còn tránh tạm vào một hòn đá. Rồi sau chỉ kịp khoác cái áo
lên, cứ thế trở về khu nhà ở.
Những
bữa cơm TNXP ở đây, ít thức ăn quá, người ta phải ăn nháo nhào bát đầu cho
xong, rồi thì xoay tí muối. Mỗi người được mua một quả trứng luộc rồi, sau bữa
cơm của người nào người ấy giải quyết.
Những
cô con gái ngồi giữ kho suốt ngày có người nhờ may vá. Chuẩn một kéo. Đào một
kéo. Đến nơi thấy thế, Sát phụ trách hành chính nhì nhèo "Chúng mày cứ lấy
hết cả kéo trong kho thế thì còn bảo quản nỗi gì nữa." Nhưng rồi chính ông
ta lại bảo con gái ở đây nó thiếu vải lắm anh ạ. Bây giờ mỗi đứa xin lỗi anh
chỉ còn một cái quần phăng với cái quần đen, cái nào cũng tàu tàu cả. Đơn vị
thì phát đủ rồi, cơ quan chịu sau. Hôm nọ C3 bị đánh, lại vận động cho lần nữa,
ai có 3 thì cho 1. Kết quả là chả ai có gì dùng khi cách nhỡ nữa.
...
Chao ôi, rồi những đứa con gái này về, sẽ làm nên những công trạng gì, sẽ biết
làm gì.
Tổ mộc
4 cậu, 1 mới còn 3 cũ. Thấy bảo những 6, 1 đi phép, 1 xuống bệnh xá làm. Hai
giờ đến nơi, còn thấy 1 cậu nằm, 1 cậu thì thọt nhờ người ta chữa quần hộ, hý
hửng mò về. 2 cậu ấy với thằng bé mới đến gần ngồi ngoài bãi gỗ
Kể
chuyện:
- Cánh
tôi đi 3 năm cả rồi. Ở nhà có biết mộc nề gì đâu, vào đây cứ làm đấy chứ, được
cái nghề, về nhà chữa chạy đồ đạc, chứ quê mình vời được ông thợ mộc còn khó
lắm.
Bây giờ
các ông ấy cứ bảo ở đây hưởng lương công nhân. Tôi thèm vào. Cho chúng tôi đi
học gì thì học. Không có thì về. Bây giờ sang năm thứ tư rồi, tháng hưởng 10đ,
làm đến đâu thì làm.
Nghe
chúng tôi trò chuyện thằng bé con cứ nghếch ra cười. Một cậu bảo: Cố mà học đi
còn làm nghề thay chúng tao.
Cái
nghề TNXP này ấy à, đến đâu thì làm đến đấy, hàng làm xong đưa các ông ấy được
thì đưa, không thì vứt mẹ nó đi, làm cái khác.
Bảo cậu
bé mới đến: Mày cứ xếp gỗ vào đây, rồi chúng tao đóng cho cái giường thật đẹp.
Chuyển đơn vị chúng tao chỉ mang vài bộ quần áo thôi, còn cho mày tất. Cái
giường đẹp nhất, rủ con bé Chín ra đây, hai đứa nằm cũng vừa.
Lại kể
hồi chúng tôi ở đường sắt ngoài kia, đâu cũng đi, đâu cũng vào, ra vào ga hàng hóa
như đi chơi. Một lần tàu đỗ, bán hàng cho hành khách bánh, kẹo, tôi chen vào
tôi mua, người ta kêu, công an đến, hoạnh hoẹ ra phết nhé. Chúng tôi bảo chúng
tôi làm TNXP ở đây anh có muốn bắt cứ đưa đến hẳn bộ trưởng GTVT Phan Trọng Tuệ
hay Tổng cục trưởng tổng cục đường sắt
Hà Đăng Ấn thì tha hồ mà bắt. Thế là phải thả thôi. Nhân dân người ta bảo: Thôi
cho các anh ấy đi. Không có các anh ấy làm cầu thì lấy đâu đường mà cho tàu đi.
... Tôi
không muốn đến với họ nữa. Với cuộc chiến tranh này họ quá già rồi thì phải.
Lớp trẻ ở đây là một cậu bé, trông lúc nào cũng cười, béo lẳn, mắt cứ híp lại.
Mới đến, tôi thấy nó ngậm một ngụm nước lúng búng tay về vê điếu, đầu gật gật
đi mượn bật lửa. Hút thuốc, vừa tắt hơi khói, vứt cái điếu giấy đi thì cũng nhỏ
toẹt cái đống lùng bùng xuống chân giường. Và say, nằm vật ra giường. Dễ chừng
cậu ta không dám ló mặt ra ngoài, cũng vì say quá, dễ bổ chửng xuống suối.
- Mày
quê đâu?
- Quê
Thanh Hoá.
- Toàn
cá chích chớ gì
-- ...
- Ở nhà
có no không?
- No
chớ (chữ no gần thành chữ non)
- Thế
nầy đi có thích không?
- Đi thế
nầy no hơn. Nhà ăn được 6 bát, đây ăn 10 bát. Nhà lại phải ăn thêm ngô, thêm
khoai, sắn ấy. Chỉ có cái ở nhà được ăn cá cơ man nào là cá. Tha hồ mà ăn!
Nó đang
tuổi ăn khoẻ, ngủ khoẻ mà! Hồi mới ở đại đội lên, nó gầy nhẳng, giờ mập hẳn lên.
Đây là
lứa TNXP thứ hai. Năm 1965, nhiều đội được thành lập, và từ đó đã hơn 3 năm
trôi qua, đã một lứa thanh niên làm xong cái thời hạn mà người ta quy định cho họ
rồi. Nhớ hồi ấy, cứ bảo chiến tranh chỉ 3 năm, 4 năm là xong. Bây giờ gần 5 năm
rồi, mà cuộc chiến tranh còn vô chừng dai dẳng. Thực bụng mình vẫn chưa hiểu
câu của N. Bớcsét: Hội nghị Paris có thành công thì Việt Nam cũng không thống
nhất được.
30/5.
Suốt
một tuần sang đất Quảng Bình này là mưa, giá ngại thì không còn muốn ra
khỏi nhà.
Con
đường về anh mưa hút lối
Trắng
ngang trời không gian mênh mông
..
Thời
gian đi không gian dường đứng lại
Chẳng
biết nhớ thơ hay nhớ chính con người nói chuyện rất thông minh đó nữa.
Nhưng
mà mưa ở đây nó lại càng để lộ ra cái buồn bã cuối chiều, của công việc. Đơn vị
đến đây từ 27 tết. Nghe các cô ấy kể lúc đầu chuyển đến để phục vụ xe vào rất
nhiều trong dịp tết, cho nên nhà cửa làm chỉ tạm bợ. Đến bây giờ thì mưa xuống,
nhà nào cũng kêu dột. Kho dột, chỗ ở dột. Mấy cậu đến làm nhà kho gấp đi khiêng
độ chục tấm gianh về dọi lại một chái, dùng độ 3 tấm rồi lại vứt đấy.
...
Những người ở lứa bọn tôi cả những lứa sau này nữa, đã biết làm gì đâu. Chúng
nó mới lớn lên, ở nhà chỉ đi chơi với lại học. Bây giờ phải đảm đang hết tất
cả. Liệu sẽ ra sao nhỉ. Chẳng nhẽ chỉ có thể rút ra kết luận là bọn này sống
làm sao được, nếu không có các ông già hay sao? Cuộc sống thì khốn khổ quá,
người thanh niên mới lớn thì non dại quá. Anh Nguyễn Khải bảo ở nước ngoài từ
25-30 vẫn còn là thời kỳ học việc, mãi từ 35-40 trở đi mới gọi là chủ động được
công việc. Ta thì cứ khôn trước tuổi mà vẫn non bẽo.
Trời
vẫn cứ mưa. Thời gian khắc nghiệt cứ đưa những thứ tạm bợ qua loa phơi trần cả
ra. Chiến tranh tưởng là tạm bợ thì không phải, nhưng chẳng nhẽ lại là một việc
còn lâu dài mãi. Lịch sử sẽ đi đến đâu? Lịch sử là một dòng nước ngầm tuôn mãi
dưới hang kia, cần mẫn, chăm chỉ, không đếm xỉa gì đến mưa nắng và ngày đêm, cứ
cuốn trôi một cách hết sức bình thản mà cũng hết sức dữ dội. Lúc nào cũng như
một lò vôi đang sôi. Đi xuống hang sâu thăm thẳm, lạnh cả người. Đá cũng phải
mòn. Trêu vào nó ư? Nhưng chẳng nhẽ lại nảy ra cả cái ý định trêu nó? Không,
phải đi cùng dòng với nó.
Nhớ ngõ
nhỏ 105Thuỵ Khuê, không hiểu cái nhà gia đình tôi ở hai chục năm nay đã ra thế
nào? Cầu trời rằng nó không đổ, đợi mình về mua ít nứa, dọi lại. Thầy thì không thể nào khỏi
được. Hết sức đớn đau, mà không biết làm thế nào. Mình có tàn nhẫn quá không?
Hôm trước khi đi, mình nói ông cụ rất nặng lời. Điều mình ân hận mãi như thế,
có làm thầy nghĩ lại mà mạnh bạo đi lại làm việc hơn lên? Về chuyện người già
nhớ Xuân Quỳnh kể. Bố tôi rất yêu Hà Nội, suốt đời nhặt nhạnh tìm tòi tài liệu,
trong ấy cụ cũng viết một quyển sách về Hà Nội đấy. Tôi rất nhớ cụ, nhưng biết
rằng giá kể bây giờ quay về gặp cụ thì cũng không biết nói gì.
Anh
Ngọc, Chính trị viên đại đội. Đến nơi xem giấy giới thiệu, mời nước.
- Đồng
chí đến đây chỉ có lợi cho chúng tôi thôi. Con người gù, mắt nhỏ tí, ngồi cứ
như định gục xuống.
- Tôi
trước kia có học gì đâu, toàn tự học cả. Lúc mới ra, người ta đã chỗ nọ chỗ kia
mình cứ ngồi đấy. Đến lúc cải cách ruộng đất thì lại gay nữa chứ. Sau phải gặp
mấy ông cốp, cả ông thiếu tướng Phạm Kiệt, xin ông ấy chứng nhận cho. Lâu nay,
mình đã biết mình không làm gì được về chính trị, đã cố học rồi. Học xong cũng
chẳng thấy nó cho đi đâu cả. Bây giờ ra ngoài cũng thế (Hồi tôi ra ngoài Vương
Linh cũng ra đấy!) Lúc đi học còn lôi thôi chán mới về Bộ tư lệnh công binh.
Rồi vào đây.
Mình
nói chuyện hai thế hệ, chuyện các ông, ông Đồng, ông Đỗ Mười đi các nơi.
- Đúng
thế đấy, tôi thấy gần đây báo chí mình có chú ý mặt ấy hơn. Dân tộc anh hùng
thì rõ quá rồi. Nhưng sau cái đó thì mình cũng làm đủ chuyện dở. Nghĩa là trong
này lãng phí vô vàn.
Người
ta kể về Ngọc
- Có
tháng mấy chục bạc thuốc.
- Mấy
bộ quần áo bà ba đấy. Ông ấy mà mặc bà ba vào thì cứ thụng đến đầu gối, mà túi
nào cũng thuốc lá.
- Luộm
thuộm lắm. Quân áo mỗi chỗ một nơi. Thấy bảo có khi hàng tháng ông ấy mới tắm
một lượt.
- Nhưng
mà một người quần chúng như ông ấy thì tốt quá. Ông ấy xông xáo lắm, đâu cũng
đi, chỗ nào đường hỏng là có mặt ngay, cứ cái gậy đó hun hút đi.
Thuận
C4 lên báo cáo về nhà cửa bị hỏng.Ngọc bảo:
- Hồi
ấy tao đã bảo nó rằng phải hạ nền nhà xuống. Bọn con trai nhất định không nghe,
đến bây giờ mới thấy đấy. Cho nên, thanh niên cũng có cái tốt là hăng hái nhưng
cũng có chỗ dở là tuỳ tiện. Tuỳ tiện là chết.
Những
cô gái ở đây cứ làm cho mình luôn nghĩ đến những người ở nhà. Nhạc, cô cấp
dưỡng bảo ở đây chẳng hiểu bao giờ khá hơn. Tôi nói những trường hợp hai vợ
chồng nuôi một đứa con ở Hà Nội, cũng cực nhục lắm. Vậy thì ở đâu vất vả hơn?
Hạnh phúc cuộc đời này là cái gì?