Có một đoạn văn của Nguyễn Tuân viết từ thời tiền chiến như sau:
“Sớm nay, tâm
trạng tôi lúc nằm nhàn tưởng ở giường với cuốn sách mở trên ngực là tâm
trạng một người đang vui sống, vui đến nỗi cảm thấy cái vô dụng của
mọi cuộc Cách mệnh xã hội trên thế giới. Và tính cách vô bổ của mọi thứ
Tôn giáo lúc này lại càng rõ rệt quá. Tôi huýt sáo gió. Tôi hát Tây. Tôi
ngâm thơ Tầu cổ".
Đây là đoạn cuối trong
bài “Đẹp lòng”, in ở cuối tập “Tuỳ bút” , cuốn sách này in ở NXB Cộng Lực ở Hà
Nội lần đầu năm 1941. Cũng có thể tìm thấy nó trong Nguyễn Tuân toàn tập,
Nguyễn Đăng Mạnh biên soạn, tập II, nxb Văn học 2000, tr. 565
Một đoạn văn ngắn có
những ý tưởng lớn lao và đầy khiêu khích như là “sự vô dụng của mọi cuộc cách
mạng”, “sự vô bổ của mọi thứ tôn giáo” rất cần được bàn, nhưng xin để khi khác.
Tôi thích đoạn văn trên
là bởi bị ám bởi mấy câu cuối “Tôi huýt sáo gió. Tôi hát Tây. Tôi ngâm thơ Tầu
cổ". Cả đoạn đã nói rõ, một bước tiến quan trọng của người Việt đầu thế kỷ
XX, đó là thói quen biểu lộ tình cảm bằng tác phẩm nghệ thuật của nước ngoài và
trong văn chương thì qua ngoại ngữ. Thời trung đại dùng tiếng Hán. Trong thời
hiện đại, việc sử dụng tiếng Pháp có hạn chế hơn, nhưng ở khâu chuẩn bị cho
sáng tác cũng như trong sinh hoạt nói chung, tiếng Pháp cũng rất đắc dụng.
Từ sau 1945, chúng ta quen nghĩ là chỉ những tác phẩm nào được viết bằng tiếng Việt và xuất
phát từ người Việt thì mới quan trọng và đáng được chúng ta nghiên cứu kỹ
càng rồi coi là truyền thống đáng tự hào. Việc đó trỏ thành quy phạm vì
chúng ta phải lo chiến đấu cho độc lập, do đó phải sống cách biệt với thế giới.
Rồi hoàn cảnh bất đắc dĩ trở thành tự nhiên. Ở Hà Nội mà chúng tôi sống, việc
cách biệt với nước ngoài bao gồm cả cách biệt với những gì người Việt viết bằng
ngoại ngữ. Trong khi đó thì ở các nước khác là không phải thế. Cứ cái gì hay và đúng thì ai viết cũng được, viết bằng ngôn ngữ gì cũng được. Từ xưa đã
vậy sang thời hiện đại càng vậy, khi thế giới đã trở thành một khối thống nhất
thì việc người dân tộc này thông cảm với người dân tộc khác là điều dễ hiểu.
Trong suốt trường kỳ
lịch sử, có những người Việt nhất là các trí thức hàng đầu đã sử dụng văn tự
nước ngoài một cách thành thạo, nhờ đó họ nghiên cứu về cuộc sống trong nước và
biểu lộ tình cảm của mình trong đời sống hàng ngày. Không có lí do gì lại gạt bỏ
những tác phẩm bằng tiếng nước ngoài đó, và xem chúng là thua kém, là không
quan trọng so với những tác phẩm viết bằng bản ngữ.
Về mặt ghi nhận sự phát triển tư tưởng của cộng đồng, tôi cho là “Ức Trai thi tập” của Nguyễn Trãi có gì đó
biểu lộ hết những vấn đề tư tưởng của thế kỷ XV tốt hơn so với “Quốc Âm Thi
Tập” của cùng tác giả. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du theo tôi cũng biểu lộ hết con
người tác giả thời đã trưởng thành tốt hơn, đầy đủ hơn so với Truyện Kiều. Và
trong thời hiện đại, những tác phẩm của Nguyễn Văn Vĩnh viết bằng tiếng Pháp
trên báo Annam Nouveau (Nước Nam mới) thì quan trọng hơn hoặc là cũng có giá
trị không kém, so với những bài ông viết trên Đông Dương tạp chí. Phạm
Quỳnh cũng vậy. Nam Phong của ông có phần viết bằng tiếng Pháp tuy có vẻ cùng
nội dung viết bằng tiếng Việt. Ngày nay ta chỉ nghiên cứu phần tiếng quốc ngữ
nhưng thật ra bản gốc bằng tiêng Pháp in kèm, theo tôi được biết qua các bản dịch, lại sâu sắc hơn và hiện đại hơn.
Sau 1945, trong nghiên
cứu lịch sử Việt, các nhà nghiên cứu Hà Nội chú ý phần đương đại nhiều hơn hẳn lịch sử cổ
cận, từ đó đi tới những nhận thức nông nổi mà vụ lợi. Khi cần ta thường
cho dịch các tác phẩm ưu tú của các trí thức viết bằng ngoại ngữ ra
tiếng Việt và lờ đi văn bản gốc. Theo tôi hiểu trên thế giới hiện nay không đâu
chỉ cho công chúng tiếp xúc “chay” với văn chương và tư tưởng của các bậc tiền
bối qua các bản dịch như vậy.
MỘT DỰ BÁO CHÓI SÁNG CỦA NGUYỄN
VĂN VĨNH
VỀ HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA XÃ
HỘI VIỆT NAM
Khi nghĩ về tầm quan
trọng của các văn bản viết bằng tiếng Pháp trong sự phát triển tư tưởng ở VN
đầu thế kỷ XX tôi nhớ tói trường hợp sau có liên quan tới Nguyên Văn Vĩnh
Bên cạnh
tủ sách tinh hoa với nhiều cuốn sách mới mẻ, NXB Tri thức ở ta còn cho in một số
cuốn có vẻ rất bình thường nhưng với tôi cũng rất quý như
“Bức tranh kinh tế Việt
Nam thế kỷ XVII và XVIII “ của Nguyễn Thanh Nhã,
"Sang Tây – Mười
tháng ở Pháp" của Phạm Vân Anh (Đào Trinh Nhất)....
Trong tay tôi đang có
cuốn “Nguyễn Văn Vĩnh là ai ?” in bài của nhiều tác giả do Nguyễn Lân Bình
tuyển chọn.
Tôi đặc biệt chú ý tới
bài “Sự nghiệp Nguyễn Văn Vĩnh” của Nguyễn Văn Tố viết bằng tiếng Pháp năm
1936, kéo từ trang 139 tới trang 211.
Gíá có sức khỏe, tôi
muốn lược thuật bài viết này, vì nội dung xúc tích của nó.
Ở một tầm văn hóa tương đương, ông Tố đã đưa ra nhiều phát hiện về ông Vĩnh trên phương diện một trí thức, ở đây có nhiều nét mới so với hình ảnh ông Vĩnh lâu nay chúng ta chỉ hiểu qua các tác phẩm bằng tiếng Việt .
Ở một tầm văn hóa tương đương, ông Tố đã đưa ra nhiều phát hiện về ông Vĩnh trên phương diện một trí thức, ở đây có nhiều nét mới so với hình ảnh ông Vĩnh lâu nay chúng ta chỉ hiểu qua các tác phẩm bằng tiếng Việt .
Trước mắt là một dự báo của ông Vĩnh về sự phát triển của xã hội VN sau mấy chục năm chuyển mình theo hướng hiện đại hóa theo sự hướng dẫn của người Pháp.
Ở chú thích số 14 tr. 209 sách trên , ông Tố đã dẫn ông Vĩnh như sau
--
Để giúp đỡ - liệu có cần nói thêm nữa không đây? – vào công việc giáo dục các đồng bào trẻ tuổi chúng ta, Nguyễn Văn Vĩnh dạy chúng ta:
Để giúp đỡ - liệu có cần nói thêm nữa không đây? – vào công việc giáo dục các đồng bào trẻ tuổi chúng ta, Nguyễn Văn Vĩnh dạy chúng ta:
”Nếu hơn bao giờ hết giáo dục phải lôi
cuốn công việc hội Tương tế Giáo dục chúng ta, thì lý do của điều đó là sự du nhập
vào nước ta dần dần từng bước và rồi sẽ hiện diện khắp nơi một điều mới lạ về
chính trị có tên gọi là “đầu phiếu phổ thông và bình đẳng”.
Ông giải thích thêm:
Ông giải thích thêm:
"Theo nội dung của thiết chế này, quần
chúng đông đảo cùng làm chủ các việc công.
Thế nhưng quần chúng đông đảo cũng lại là
bộ phận dốt nát nhất của mọi xã hội, và cũng có nghĩa là bộ phận nhiều đam mê
hơn cả và dễ bị đánh lừa hơn cả bởi những nhà hoạt động quần chúng đôi khi
thành thực song bản thân họ cũng dốt nát và cũng bị đánh lừa bới những kẻ lắm
tham vọng, những kẻ ngụy biện và mỵ dân.
Như vật là rất có khả năng đẩy xã hội quay
về với lộn xộn và hỗn loạn.
Cảnh man rợ lại hiện ra vì vẫn chờ đợi
trong dạng tiềm năng.
Tất cả mọi người đều phải quan tâm ngăn
chặn mối nguy đó, không chỉ các tầng lớp bên trên, mà ngay cả quần chúng đông
đảo, tất cả những ai khát khao sống hạnh phúc, sống có nhân phẩm, sống trong tự
do.
Ấy thế nhưng, không có trật tự thì làm sao
có hạnh phúc, lấy đâu ra nhân phẩm khi không có sự tôn trọng chính mình và tôn
trọng kẻ khác, lấy đâu ra tự do nếu không có giáo dưỡng trí tuệ và đạo lý.
Vậy nên, quần chúng đông đảo phải được đặt
ngang tầm sứ mệnh của họ. Muốn cứu vãn xã hội thì phải làm như vậy”.
Hiển nhiên, đây là một chương trình giáo
dục sáng láng và thực dụng mang màu sắc chủ nghĩa xã hội duy lý mà chắc là
không một đầu óc ngay thẳng nào sẽ từ chối công việc chuẩn bị cho nó thành hiện
thực.
--
Theo chỗ đọc được của tôi, ở tầm khái
quát của nó về lịch sử VN từ đầu thế kỷ XX, chưa bao giờ có được
một tư tưởng tiên tri sáng chói như vậy.
Có 3 ý cần ghi nhận trong phát biểu trên đây của Nguyễn Văn Vĩnh
một là diễn biến lịch sử
hai là vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch
sử
và ba là vai trò của giáo dục trong việc làm ra một nhân dân có thể đóng
vai trò tích cực nhất trong lịch sử'.
Hãy trở lại đoạn văn trên bằng cách đi ngược từ kết quả tới nguyên nhân sẽ thấy rất rõ
Hãy trở lại đoạn văn trên bằng cách đi ngược từ kết quả tới nguyên nhân sẽ thấy rất rõ
1/Theo cách giải thích chính thức, có thể
bảo là thực tế đã xảy ra khác với Nguyễn Văn Vĩnh dự đoán.
Nhưng theo một cách
nhìn lùi về xa hơn thì ông Vĩnh đúng đến từng chữ.
Trước hết là xã hội quay về với lộn xộn và hỗn loạn.
Còn hai nguyên nhân của sự lộn xộn này (bộ phận manh động của xã hội đã thắng thế và lý do họ bị những kẻ nhiều tham vọng lợi dụng) cần phải lý giải kỹ hơn nhưng căn bản là đúng.
Trước hết là xã hội quay về với lộn xộn và hỗn loạn.
Còn hai nguyên nhân của sự lộn xộn này (bộ phận manh động của xã hội đã thắng thế và lý do họ bị những kẻ nhiều tham vọng lợi dụng) cần phải lý giải kỹ hơn nhưng căn bản là đúng.
2/Ở một bình diện khái quát hơn, nếu diễn tiến lịch sử này ngày nay còn có thể phải tranh cãi thì cái ý thứ hai về tầm quan trọng của quần chúng nhân dân trong lịch sử phải nói là tuyệt đối đúng và đặt vào hoàn cảnh nước Việt đầu thế kỷ 20 thì nó còn là một cái gì mới về về mới mẻ mà cả các tầng lớp lớp trí thức lẫn quan chức nhà nước đều không thể hiểu nổi
3/Sau hết là cái ý của Nguyễn Văn Vĩnh về vấn đề giáo dục
Chúng ta ngày nay ai
thấm thía hơn bao giờ hết vai trò của giáo dục trong sự phát triển của đất nước
nhưng ở thời điểm mà Nguyễn Văn Vĩnh phát biểu không mấy ai đoán được những giai đoạn lịch sử của đất nước thời
gian sắp tới sẽ diễn ra như thế nào và không thể có được những phát biểu tôi
cho là thiên tài như thế này về guồng máy lịch sử sự vận động của nó trong 100 năm
qua .
Thời điểm đầu thế kỷ 20 một người khi không
tiếp xúc được với văn hóa Pháp mà chỉ đọc và viết tiếng Việt không thể nghĩ
được như vậy được.
Đề xuất cuối cùng của tôi:
- nếu chúng ta muốn nghiên cứu lịch sử hiện
đại thì phải trở lại với thời gian dân tộc gần như được hình thành lại được nhào nặn lại dưới bàn tay nền văn hóa Pháp
lúc đó một thứ người
Việt mới - hiện đại - bắt đầu hình thành
Ở họ để chuẩn bị cho cách sống và sự suy nghĩ bằng tiếng Việt thì phải bắt đầu học hỏi cách sống và sự suy nghĩ bằng tiếng Pháp.
Ở họ để chuẩn bị cho cách sống và sự suy nghĩ bằng tiếng Việt thì phải bắt đầu học hỏi cách sống và sự suy nghĩ bằng tiếng Pháp.
- muốn nghiên cứu lịch sử tư tưởng thì phải
nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ