Vốn là bài Thói hư tật xấu người Việt trong làm ăn buôn bán,
đã đưa trên blog này ngày 20-3-2012, được sắp xếp lại và bổ sung thêm
Thời
bao cấp, dân cán bộ Hà Nội đều nghĩ, giá mình được buôn bán thì chết với mình.
Nhưng thực tế ba bốn chục năm nay cho thấy chúng ta chỉ giỏi buôn bằng
tiền nhà nước, còn suy cho cùng thì vẫn buôn đầu chợ bán cuối chợ. Buôn gian
bán lận lừa lọc làm hàng giả là cả một thói quen lưu cữu từ thời làm ăn theo
kiểu tiểu nông, nó sẽ không bao giờ đưa ta gia nhập vào nền thương nghiệp hiện
đại. Song đây là cả một “truyền thống” của nghề buôn bán ở Việt Nam, mà dân ta thường lảng tránh, chỉ sang thời hiện
đại, do tiếp nhận được văn hóa phương Tây, nhiều trí thức thế kỷ XX mới chỉ
ra được. Điều oái oăm là ở chỗ
những ý kiến như thế này hầu như chưa bao giờ được các nhà quản lý nền kinh tế cũng như các nhà nghiên cứu văn hóa chú ý, còn những bạn trẻ đang lo khởi nghiệp lại càng không cần biết tới, bởi vậy, mặc dầu công việc sưu tầm này đã được phổ biến đây đó,
chúng tôi vẫn muốn nó có dịp đến với
nhiều bạn đọc hơn.(23-5-17)
Không biết chấn hưng thực nghiệp (1)
Người nước ta xưa nay chia ra bốn nghề sĩ
nông công thương... Phàm những kẻ biết đôi chút từ chương là đã vênh vang tự
cho mình là kẻ sĩ, không thèm đứng cùng hàng với nông công thương, cho họ là
hèn hạ, gọi là dân buôn, dân thợ, dân cùng. Sĩ đã không biết việc nông công
thương, mà nông công thương phần nhiều không học hành, không biết nông học là
gì, công nghiệp là gì, địa lý là gì. Trăm môn chẳng biết môn nào, thực nghiệp
mới không chấn hưng được.
Ở các cửa khẩu thông thương, trăm người không
ai không mặc vải Tây, mà vải Tây là lấy bông sợi của ta dệt ra (...) Các nhà
buôn học thức nông cạn, người ta mang hàng đến mà mình không biết chở hàng đi
(2). Nhà buôn trong nước rất tản mạn, chèn ép lẫn nhau, không có chủ trương
nhất định...
(1)
thực nghiệp là từ chỉ chung các ngành sản xuất vật chất, bao gồm cả nông nghiệp
lẫn công thương nghiệp
(2)
chỉ lo nhập khẩu không biết xuất khẩu
Quốc dân độc bản, 1907
Tiêu xài quá đáng
Người bổn quốc lâu nay tục thành (1) giữ sự
độc lợi (2), không chịu lo xa hễ có nhiều xài nhiều, còn có ít lại không biết
xài ít, bởi vậy cho nên tham lợi vô cớ, đặng có cho mau mà xài chơi xởi lởi,
kẻo thấy chúng (3) xài phí chơi bời mà mình không đặng vậy thì buồn. Tính hay
liều về việc phi lý, gan về cách phi nghĩa, chớ chi (4) mà điều liều phi lý và
phi nghĩa đó, để mà đổi cho những điều có nghĩa lý, thì người chúng ta có phước
ra thế nào.
(1) đã thành tập quán
(2)
lợi riêng một mình
(3)
mọi người, bàn dân thiên hạ
(4)
Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh
Của xác định là “tiếng ước cho được “. Có thể hiểu như giá kể mà.
Lương Dũ
Thúc
Nông cổ mín đàm, 1902
Thiếu
cái gan làm giàu
Cách
đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) bao nhiêu tiền bạc mà
không sợ mất là vì người ta tiên liệu đại lợi (3), kể chi sự phí. Chớ như người
bổn quốc ta, muốn cho thấy trước mắt có lợi mới chịu làm.
Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng
bông (4) thì bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy
lợi, còn mua chiều sáng thấy; chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn
nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi. Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít (..) còn
lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ
không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ làm rồi thì quen, còn người mình
không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
(1) buôn bán lớn
(2) bỏ tiền của ra sử dụng
(3) tính trước rằng sẽ lãi lớn
(4) hàng hoa quả
bông trái
Lương
Dũ Thúc
Nông cổ mín đàm 1901
Không lo xa, dễ thoả mãn
Tôi luận rằng người nước Nam ta khi túng thiếu thì lo lắng
thở than, trong lúc đói lo một hồi mà thôi, chớ no không lo nữa.
Người nước của chúng ta, bởi không từng
trải ít thấy rộng ít nghe xa (...) hễ vừa mới động nở nòi ra một thí (1) là đổi
tính đổi nết, làm bề làm thế (2), muốn nghỉ mà ăn chơi. Bởi làm sao vậy? Bởi
trong trăm người mới có một thì là trong một xóm ở chừng một trăm, người ấy đã
đặng trên mấy bợm (3) khác. Có bạc chục bạc trăm, cho vô cho ra, đã có người
thiếu nợ mình rồi; cho nên hết muốn ráng sức nữa. Vì vậy nhiều khi nghèo nàn
khổ sở trở lại. Đến lúc nghèo rồi lại than thở trách trời, sanh mình sao mà vận
xấu, mới cho khá rồi lại làm cho nghèo, tại trời không thương.
(1) khá giả
một tí
(2) làm le,
làm dáng, khoe mẽ
(3) bợm đây
không có nghĩa xấu mà chỉ có nghĩa bọn khác kẻ khác
Lương Dũ Thúc,
Nông cổ mín đàm, 1902
Chơi
bời lãng phí
Theo tục ông bà để lại, hễ mãn một năm thì
ăn tết một lần, ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ tới ngày ấy, ai ai cũng đốt
pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh quần tới bảy bữa, rồi
nào me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có ông ăn tết rồi
thì bán nhà bán cửa nợ réo trước nợ réo sau. Đã bần nhược lại đãi đoạ (2) vậy
thì biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng.
(1)
Theo Huỳnh Tịnh Của, đánh me là “gây ăn thua trong cuộc chơi tiền", còn
lú là “cuộc con nít dùng tiền mà đánh
đố “
(2) biếng nhác
Trần Chánh
Chiếu
Lục tỉnh tân
văn, 1907
Ăn xổi ở thì, chưa lo làm đã
lo phá
Nước nào cũng có gian giảo, Tây , Nam ,
Chệt, Chà (1) đều có kẻ tốt người xấu. Song nước ngoài người ta gian khéo xảo
lớn, còn nước mình gian vụn xảo vặt. Nói giác thể (2) như một người Chệt kia
lãnh của người ta đi buôn, lãnh rồi thì lo làm ra té lời cho nhiều, có gian lận
thì lấy trong cái tiền lời ấy, chớ không khi nào đụng tới vốn bao giờ. Họ tính
như 1đ00 mà làm lợi ra 0đ30, dầu có gian, chủ có hay, cũng dám nhắm mà cho
gian. Còn người nước Nam
không phải vậy, cứ gốc đẽo hoài. Chủ ra vốn cho 10đ đã phá tán cho lỗ lã, rồi
cứ cái vốn lấy hoài, cứ cái mạch châm hoài. Đụng 0đ50 cũng gian, 0đ30 cũng
gian, làm sao mà không háp tiệm (3).
Chuyện gì hồi lãnh coi công việc thì bần hàn
ăn mắm muối, vợ rách con đói; chừng lãnh việc rồi, vợ đeo vòng con đeo vàng,
chồng giày vợ dép lên xe xuống ngựa, vợ lấy bạc góp chồng lấy bạc góp, chồng
trai gái đào đĩ, sắm giường sắm mùng riêng, vợ tùng điệp (4) đem cả kiếng họ
(5) đến tiệm mà ăn phá. Ôi tính hay ăn xổi, xài gấp giật gấp, nước mình nay ra
đi buôn thì không khác gì mấy đứa con nít tập đi tập chạy.
(1) Chệt (có
khi viết Chiệc): người Tàu; Chà: người Mã Lai hoặc Ấn Độ; còn Tây và Nam , tức
người phương Tây và người Việt
(2) ví dụ
(3) háp, nghĩa gốc là khô héo, háp tiệm đại ý cũng như sập tiệm
(4) liên tục, dồn dập
(5) Chi họ, dòng họ
(2) ví dụ
(3) háp, nghĩa gốc là khô héo, háp tiệm đại ý cũng như sập tiệm
(4) liên tục, dồn dập
(5) Chi họ, dòng họ
Trần
Chánh Chiếu
Lục tỉnh tân
văn, 1908
Không ai chuyên nhất việc gì
Các nước phú cường, người nào
làm việc gì thì chuyên việc ấy . Nhà khoa học lo cả đời phát minh; người làm
giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy
việc; trong khi làm bàu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái
tình, lại có mở một cửa hàng tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.
Người ngoại quốc thấy vậy, cho
rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không có đức chuyên nhất, không
có tính nhẫn nại .
Tân Việt (*)
Mỗi người một việc – Đông Pháp thời báo, 1928 (*)Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan
Khôi ký chung trên Đông Pháp thời báo 1928 ( theo Lại Nguyên Ân ). Nghe giọng thì người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?).
Việc buôn bán lặt vặt quanh quẩn
Việc
buôn bán của ta ngày xưa kém cỏi lắm. Người thiên hạ đi buôn
nước này bán nước nọ, xuất cảng nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to
lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả
đời không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở
trong nước, buôn bán những hàng hoá lặt vặt,
thành ra bao nhiêu mối lợi về tay
người ngoài (1) mất cả. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chíêc thuyền mành,
chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia,
lưng vốn đọ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.
(1) người ngoài đây ám chỉ Hoa kiều, trước 1945 thường gọi là khách, như trong các từ hiệu
khách, phố khách …
Trần Trọng Kim
Việt Nam sử lược,1925
Tài trí thua
kém
Nghĩ như nước ta, ruộng đất
tốt, rừng núi nhiều, các mỏ có, phận đất duyên hải cũng thật dài, vậy mà cuộc
kinh tế mỗi ngày mỗi khó, thời là sao?
Nói về tài trí, quốc dân ta thứ
nhất đã kém về cơ khí cho nên công nghệ phải thua. Vật xấu mà giá bán đắt hơn
thời còn mong gì tiêu thụ cho ngoại quốc (1). Ngay trong bản quốc, vẫn phải cần
dùng đồ nước ngoài. Bài trừ ngoại hoá chẳng qua là câu chuyện nói chơi, khó
thay sự thực. Như ở Nam Kỳ nhà máy xay gạo của người ngoại quốc thì không sao; người
nước ta chỉ có một cái nhà máy xay mà cháy. Ở mặt bể, tàu của người ngoại quốc
thời không sao, người nước ta có một cái tàu Bình Chuẩn (2) mà chìm. Nghĩ ra
cũng là tài trí thua kém.
Nói về tư bản (3), nguyên
người nước ta đã không lấy đâu có được nhiều người có tư bản to ví với người
ngoại quốc, mà sự chiêu phần (4) lập hội thời cái bụng ăn ở với nhau kém, cho
nên không mấy hội được bền, nghĩ chỗ đó thật đáng buồn, mà có nói lắm cũng vô
ích.
(1) tức không thể xuất khẩu.
(2) tàu chở
hàng trên biển, trọng tải 600 tấn, do công ty Bạch Thái Bưởi khai trương từ
1919.
(3) của cải
vốn liếng
(4) gọi người mua cổ phần
Tản Đà
An Nam tạp
chí, 1931
Nhìn đâu cũng thấy sự tầm thường trì trệ
Đến với các bậc tân nhân vật (1) để nghe
lóng một đôi điều về đường học vấn, phần nhiều chỉ nghe bàn đến vấn đề lương ít
lương nhiều, không thì mũ, giày, đồng hồ xe đạp, mốt nào khéo mốt nào mới, mày
mua hiệu nào tao gửi bên Tây, không thì lại con bé nọ con bé kia, món này mày
món kia tao, thế thôi.
Đến các nhà buôn bán, những công ti to
thập hiệu (2) lớn, vận hàng chở hoá, kẻ vào người ra chen vai kề cánh, chẳng
hiệu chú khách thì hàng ông Tây, còn hàng An Nam chỉ là buôn lẫn bán quanh,
mình cạnh tranh với mình, không những không tranh lợi được với kẻ ngoại phương
(3), mà lại còn nói dối bán lừa, chưa khỏi thói mua hành bán tỏi.
Thứ đến các nhà chế tạo (4) chẳng thấy khói
lên không nghe máy động, các đồ thủ nghệ cũng có tiến bộ, song các nguyên liệu
phải nhờ vào người cung cấp mà vật chế tạo không chở được ra ngoài dương (5);
đồ sản xuất có mà đường tiêu thụ không, người làm càng nhiều thì nghề càng
không, hết mồ hôi nước mắt chỉ đủ “tay vó miệng lẩm “(6)
(1)
tức các nhân vật đào tạo theo kiểu phương Tây
(2)
chưa rõ nghĩa
(3)
người nước ngoài
(4)
các nhà sản xuất
(5)
tức xuất khẩu
(6)
tương tự tay làm hàm nhai
Ngô Đức Kế
Cảm tưởng trong lúc biên tập, Hữu thanh, 1923
Nông nổi và thiếu ý chí
Tình trạng sinh hoạt đâu thuận tiện cho
sự phát minh ra những pho lý thuyết cao siêu mà không giải quyết ngay nổi cuộc
sống chông chênh và eo hẹp. Cho nên người Việt ít não sáng tác (1) trái lại
hoàn cảnh ấy đã giúp khiếu thích ứng thêm cứng mạnh. Luôn luôn phải nhẫn nại và
dung hoà với hoàn cảnh, người Việt đã khuôn thể xác và tinh thần theo điều kiện
sinh hoạt nên tự tạo ra được tài mô phỏng không thua kém một dân tộc nào. Cũng
vì thiết thực quá mà người Việt Nam
thành ra nông nổi và không đủ bền chí để theo đuổi những công cuộc có kết quả
xa xôi.
(1) ở đây hiểu là óc sáng tạo
Lương Đức Thiệp
Việt
Nam tiến hoá sử,1944
Thời gian phí
phạm
cách sống
dông dài
Trong tiếng
ta có một lời mà người ta hay dùng là cơm vua ngày trời, tỏ ra ý ăn hết
chừng nào thì ăn, làm được chừng nào thì làm, không bị hạn chế và thôi thúc chi
hết. Lại có thành ngữ làm việc quan là làm việc rồi (1), làm đù đưa đủng
đởn. Phải, phàm kẻ làm việc quan, không bị hạn chế thôi thúc thì tội gì làm
đúng đắn làm kịp thời kịp vụ làm chi! Bởi vậy cho nên ngày xưa chúng ta không
có đồng hồ. Chẳng những vì khoa học không có mà không làm được đồng hồ. Mà
chính vì cái quan niệm cơm vua ngày trời, và làm việc quan ấy nó choán sẵn
trong đầu rồi, không có sự cần, nên không sinh ra khoa học mà không làm đồng hồ
được.
Có người đeo
cái đồng hồ không chạy. Máy ở trong đã hư hết nhưng mà vì nó đẹp, nên cũng đeo
cho có với người ta. Ta chưa nhìn rõ cái giá trị thật của thời gian là thế nào.
Bỏ cái quan
niệm cơm vua ngày trời đi, rồi mới dùng được đồng hồ theo như chỗ dùng
của nó. Cũng như bỏ cái căn tính cẩu thả đi, rồi mới dùng được những chữ dân
quyền tự do bình đẳng theo ý nghĩa của nó. Hiện nay thì những chữ dân quyền,
bình đẳng, tự do ở nước Việt Nam
cũng còn như cái đồng hồ của người Việt Nam !
(1) rổi ở đây có
nghĩa như trong thành ngữ “ăn không ngồi rồi “. Làm rồi: làm rất nhàn nhã, thế
nào cũng được
Phan Khôi
Cái đồng hồ của người Việt Nam , Phụ nữ tân văn,1931
Những người thợ bất đắc dĩ
Tính người mình không biết
quý trọng công nghệ, người làm nghề tựa
hồ như bất đắc dĩ không học được làm
quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới
phải xoay ra làm nghề thôi. Mà
làm nghề thì không cần gì tinh
xảo chỉ cốt bán rẻ tiền được nhiều người mua là hơn. Công nghệ suy
nhược lại còn là vì người có học thức
không chịu làm, người chịu làm thì lại
là người không có học thức, chẳng qua
chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ
không nghĩ được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có trường bách
công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động
thì cũng đã tỉnh ngộ ra ít nhiều, và cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn bán. Song cái tính khinh đường công nghệ
thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ mà nên giàu có song vẫn tự coi
mình là đê tiện, phải mượn cái phấn ông hàn ông bá mới là vẻ vang.
Phan Kế Bính
Việt nam phong tục, 1915
Không có nghề nào đạt tới
trình
độ chuyên nghiệp
Phần
nhiều người nước ta chỉ nô nức về đường công danh sĩ hoạn, mà coi nghề buôn bán
là một nghề khinh thường. Người giàu có cho con đi học mong cho con về sau nhất
ra thì làm nên ông nghè ông bảng, chớ nào ai mong cho con mai sau làm nên bác
lái này ông lái nọ. Người làm quan trở về thì lấy gió mát trăng thanh, cúc thơm
lan tốt, chè chuyên thuốc quấn, đàn ngọt hát hay làm vui thú, chớ nào ai thiết
gì ông chủ cửa hàng nọ ông quản lý cửa hiệu kia. Mà đủ bát ăn thì cũng lấy sự thanh nhàn làm thú trên đời,
còn việc buôn bán thây mẹ đĩ. Té ra bao nhiêu ông việc buôn bán phần nhiều ở trong tay người đàn bà và ở trong bọn mấy chú lái thì mong sao mở mang ra to được ?!
Lại như việc chữa bệnh, xưa kia nước ta
không biết trọng nghề làm thuốc, thường cho là một nghề nhỏ mọn, không mấy
người lưu tâm. Chốn dân gian chỉ những người bất đắc chí trong đường khoa
cử mới xoay ra xem sách thuốc để lấy
nghề sinh nhai. Phần nhiều là những người thiển học (1), rồi cũng dám lên mặt ông lang đi khắp chợ cùng quê để chữa
bệnh cho thiên hạ. Mạch thấy nắm cũng
nắm, mà có hiểu thế nào là mạch thực
mạch hư; bệnh thấy xem cũng xem, mà có
hiểu thế nào là bệnh hàn bệnh nhiệt. Đệm thêm một nắm lá xì xằng cho gói thuốc
to, để lấy cho đáng đồng tiền của người ta. Cũng may dân ta phần nhiều còn dại dột, sống chết đổ cho tại
số, chớ không thì các ông lang ấy chắc không ăn ngon ngủ yên.
(1) sức học nông cạn
Phan
Kế Bính
Việt nam phong tục, 1915
Khéo tay mà trí không khôn
Xét ra ở
nước Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là
thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có
gì sánh được với các nước; nhưng ngay trong mỹ nghệ cũng chưa có kỷ
luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ
các kiểu cách, các thời đại, các lề lối, các phương pháp; thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen
tay phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay
có khéo mà trí không khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được
tinh thần cốt cách cũ, tồn cổ mà khéo ứng dụng về đường sinh hoạt mới,
nóí tóm lại là không có trí sáng khởi (1)
khôn ngoan, gây ra trong mỗi nghề
một cái thể thức trang nghiêm mà đặc biệt. Cho nên các nhà nghề ta,
không thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho có cái trí khôn nưã.
Nay muốn
gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể
thức, thời không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ
nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong
nước, chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà học cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy
mà giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ,
hoặc nhân đấy mà biến đổi dần.
(1) bắt đầu dựng
lên
(2) quan hệ của
những cái liên tiếp. Cũng nghĩa như hệ
thống
(3) duyên (có khi đọc diên) ở đâylà thủ cựu, cách là đổi mới.Duyên cách : Tình hình cũ và mới
Phạm
Quỳnh
Pháp du hành trình nhật ký
1922
Người làm
nghề không ngóc đầu lên được
Đời sống
nông nghiệp vẫn ràng buộc sức phát triển của công nghệ, mà những người làm nghề
ở Việt Nam
phần nhiều là nông dân chỉ coi nghề của mình là một nghề phụ để kiếm thêm chứ
không trau dồi cho nó ngày một tinh xảo. Lại thêm chính những người có nghề
muốn giữ nó làm của riêng không muốn truyền dạy cho người ngoài. Dụng cụ thường
thô sơ và y nguyên kiểu xưa. Tài khéo thường bị mai một. Vật liệu để dùng thì
cũng vẫn tìm quanh tại chỗ chứ ít khi phải mua tận nơi xa. Cách chế tạo cũng
chỉ theo phương pháp tổ truyền, không mấy ai chịu thay đổi.
Lương
Đức Thiệp
Xã hội Việt nam, 1944
Đồng tiền
không dùng để sinh lợi
Tiền của
tức là máu mỡ của dân. Tôi không nói là không nên yêu tiếc. Nhưng yêu tiếc thì
phải bảo vệ nó làm cho nó sinh sôi nẩy nở. Muốn vậy phải có cách để biến nó
thành một món to, không phải chỉ một món nhỏ. Như thế mới gọi là yêu tiếc.
Thế nhưng
người nước ta yêu tiếc tiền của riêng thì lại chỉ để tiền của cung phụng cho
cái mồm cái bụng riêng của mình, chứ không biết đến có việc gì khác, đó là một.
Có kẻ lại bới đất đào lỗ để chôn giấu của cải, chỉ sợ người khác biết, chôn lâu
đến hỏng nát, đó là hai. Cả hai hạng người này một bên thì xa xỉ, một bên thì
keo kiệt, tuy không giống nhau, nhưng đều ngu như nhau.
Phan Bội Châu
Việt Nam quốc sử khảo, 1908
Không chịu học buôn học bán
Nói đến cuộc thương mại nước nhà mà thêm
chán. Bất quá trong nước được vài nhà buôn, còn thử đi qua các phố mà xem, chỉ
những Chiệc với Chà (1) họ chiếm mất cả. Buôn bán với các nước, lại càng chẳng
có ai gọi là tay đại doanh nghiệp. Vì cớ từ xưa đến nay, đàn ông ở ta chỉ lo
học hành thơ phú ngâm nga, hi vọng làm quan, chứ buôn bán cho là mạt nghệ. Hai
nữa là từ xưa không có học làm các sổ sách buôn bán, không có một trường nào
dạy buôn bán như ở nước Tàu cũng như các nước bên Âu Mỹ. Nhẽ thứ ba, ta có buôn
chỉ buôn quanh bán quẩn với nhau, không thực thà không đồng tâm, không thạo
việc, không biết cách đối đãi với khách mua hàng. Vả lại bây giờ nước ta không
giữ cái chủ nghĩa bế quan nữa, cửa ải đã mở rộng, nhưng mà cuộc thương mại với
các nước ở tay ai chứ có ở trong tay mình đâu, mà dẫu có để cho mình cũng vị
tất có đủ tài sức mà gánh vác.
(1) người Trung Hoa và người Ấn Độ
Lê Đức Mậu
Bàn về thương nghiệp, Hữu thanh, 1921
Không biết thích ứng
với xã hội hiện đại
Tất cả các công nghệ cổ truyền đều chỉ có công cụ thô sơ. Chúng không có
nhiều cơ hội để phát triển : thợ thủ công Việt Nam quả thật rất khéo léo và sẽ có thể trở thành những thợ mỹ nghệ
tuyệt vời nhưng họ rất thiếu nhìn
xa nên không thể nghĩ đến việc đặt công nghiệp của họ trên những cơ sở kinh tế hiện đại. Họ sống
ngày nào hay ngày ấy và chẳng có khả
năng gì chống chọi với sự cạnh tranh của
các vật dụng hiện đại được sản xuất với số lượng lớn hơn nhiều mà
lại được nâng đỡ bởi một thị hiếu vừa dễ
dãi vừa thất thường.
Nguyễn Văn Huyên
Văn minh Việt nam,1944
Quan
niệm về kinh tế quá cổ lỗ
Tư tưởng
kinh tế nước ta phần nhiều bị cái triết
học của người đời (1) nó đè nén. Sách Đại
học (2) có câu “ Đức là gốc mà của là ngọn “, ông Mạnh tử nói “ nhân nghĩa là đủ, sao cứ nói lợi “. Xưa
nay không ai không lấy sự dè sẻn làm chủ nghĩa rất cần, nói đến tài chính không ai không lấy sự “xem số thu vào
để liệu số chi ra“ làm chủ đích. Sự hơn đong kém bán bị khinh rẻ, người mưu lợi bị chê bai … Bởi đấy nên tư tưởng
kinh tế phương đông tản tác mà
lộn xộn, tư tưởng kinh tế phương Tây tề
chỉnh mà phân minh. Tư tưởng đã tản tác mà lộn xộn thì kết quả không tiến bộ chút nào; tư tưởng đã tề chỉnh và phân minh
thì kết quả lại có phần tiến bộ nhiều lắm.
(1 ) triết học
nhân sinh
(2) một trong Tứ thư bốn bộ sách chính của đạo Nho. Ba cuốn
kia làLuận ngữ , trung Dung Mạnh Tử
Nguyễn Xuân Dương
Sự so sánh về tư tưởng kinh
tế Đông Tây
An nam tạp chí, 1931
An nam tạp chí, 1931
Giữa chủ và
thợ không tìm được
hình thức
cộng tác thích hợp
Những nhà
nông trồng ra cây mía, nấu thành muống
đường (1). Những người làm nên đường cát
mà mang đi bán lại là người khác, tức là
nhà buôn đường. Người có tư bản xuất vốn
ra và làm chủ rồi rủ dăm ba người trai tráng làm bạn (2), gọi là công –xi, một bên xuất
tài (3) một bên xuất lực. Mãn mùa rồi tính trừ tiền vốn và tiền tổn ra còn lãi bao nhiêu chia thành hai, chủ phần nửa, các bạn phần nửa. Song
ở trong có sự rất xấu là là những
người chủ thường ăn lấn các bạn.
Hạng trai tráng đi làm bạn phần nhiều là
ngu dốt không biết gì, chủ tính trời tính đất chi thì tính, họ cứ việc dạ, miễn còn dư đôi ba đồng đem về cho vợ đã là quý rồi. Thường thấy
những công-xi làm đường chủ nhân làm nhà gạch mua đất tư còn các bạn thì khố một vẫn hoàn khố một.
(1)Tạm hiểu là đường sơ chế
(2) một cách
gọi những người cộng tác; thực chất
là thợ
(3) tài ở đây không phải tài năng, mà là tiền của.
Trích ở bài Nghề làm đường ở
QuảngNam , Quảng Ngãi
Quảng
Thực nghiệp dân báo, 1923
Những cái gia
truyền dần dần mất đi
Xét những thức quà của ta, thật có
nhiều thứ ngon,mùi vị rất dồi dào. Là sản phẩm của đồng ruộng của núi sông, những thứ quà ấy
là dấu hiệu sự thưởng thức của người
mình, vừa tao nhã lại vừa chân thật. Đó là những vật quý mà sự mát đi, nếu xảy
đến, sẽ khiến người sành ăn phải ngậm ngùi
Nhưng người mình tham thanh chuộng
lạ đã bắt đầu khinh rẻ những thứ đáng yêu ấy, có cái ngon mà họ đã gần quên mất
mùi vị. Một đằng khác, không ai chịu để ý và hết sức làm cho mỗi ngày một hoàn hảo hơn lên, cải
cách cho hợp với thời mới. Những cái gia truyền dần dần mất đi, những cái khéo
léo không còn giữ được …
Thạch
Lam
Hà Nội băm sáu phố phường, 1940
Ngủ yên trên danh vọng
Đi
với bánh đậu, còn có các thứ bánh khảo, kẹo lạc, kẹo vừng. Ngày trước, hiệu
Ngọc Anh có tiếng khắp kẻ chợ thôn quê; nhưng từ ngày Cự Hương ở tỉnh Đông (1) dồn lên, thì
ngôi bá chủ đã thay người.Trong khi Cự Hương mỗi ngày một tiến bộ trong cách
tìm tòi, khiến cho bột bánh được mềm dẻo, nhân đậu được nhuyễn trong, và cách
trình bày được sạch sẽ tinh tươm thì Ngọc Anh nằm ngủ trên cái danh vọng cũ
của mình, uể oải bán hàng cho khách. Hiệu đó hình như giàu rồi mà lại … Mà phần nhiều giàu rồi thì không hay cố nữa. Đó là
cái tật chung của người mình
khiến cho không một công cuộc nào
phát đạt được lâu dài cả từ trong cách
buôn bán cho đến những công nghệ
khác.
Tài làm bánh của người mình không phải là kém cỏi. Cái
thứ bánh dẻo Trung thu của Cự Hương không kém gì bánh của Tàu và các thứ bánh kem của Việt Hưng không thua gì bánh của Tây. Ta chỉ còn thua cái chí
nữa mà thôi ; nhưng như thế nghĩa là còn
thua nhiều nhiều lắm.
(1) tức vùng Hải
Dương
Thạch
Lam
Hà Nội băm sáu phố phường,1940
Hay nghi ngờ
và làm hại nhau trong công việc
Người châu Âu,
người Nhật Bản làm việc gì cũng hợp đoàn mà làm. Tôi thường thấy người Nhật Bản
lúc bàn tính công việc quan trọng họ tin cậy nhau hơn ruột thịt. Còn như nước
ta thì không phải không muốn làm nên việc, nhưng cùng làm việc thì nghi ngờ
nhau; không phải không muốn thành công, nhưng cùng lập công (1) thì ghét bỏ
nhau. Nếu chịu nghĩ kỹ thì tại sao ta lại không biết dằn lòng mà theo nhau, không
biết đem lòng thành thật mà đối đãi với nhau, lại cứ nghi ngờ ghét bỏ nhau, thật
là ngu quá không thể hiểu được.
(1) ngày nay lập
công có nghĩa lập được chiến công chiến tích; hồi đầu thế kỷ XX được hiểu là
làm một công việc nào đó..
Phan Bội Châu
Việt Nam quốc sử khảo 1908
Bán
quẩn buôn quanh
Việc
buôn bán của ta không được thịnh vượng bằng các nước khác cũng bởi nhiều cớ.
Dân ta nhát tính không dám đi xa. Nhiều người cậy có dấn vốn, chỉ ngồi một xó,
cái gì cũng chờ người ta mang đến tận nơi, mua tranh bán cướp với nhau, chớ một
bước cũng không dám đi đâu cả. Có đi chăng nữa, thì chẳng qua Hà Nội xuống Hải
Phòng, Sơn Tây xuôi Nam Định đã cho là xa xôi, ai bần cùng lắm mới lên đến Lao
Cai, Yên Bái hoặc vào đến Bình Định, Sài Gòn. Còn chỉ lo những nước độc ma
thiêng, hoặc là phong ba bất trắc mà quanh năm chí tối, bán quẩn buôn quanh.
Phàm làm việc gì có phải dễ dàng mỗi chốc mà
thành hiệu (1) ngay được đâu. Ta buôn bán động hơi thấy lỗ vốn một chút hoặc
hơi vấp váp điều gì thì đã ngã lòng ngay. Hoặc đóng cửa, hoặc xin thôi, làm cho
việc có cơ tấn tới mà cũng phải tan không thành nữa.
(1)
có tức kết quả
Phan Kế Bính
Việt nam phong tục, 1915
Làm hàng bán
hàng đều kém
Nước ta khi xưa chỉ có những tiểu công nghệ như quay tơ, dệt vải, dệt lụa, làm chài lưới, làm mắm muối v..v.. chứ không có đại công nghiệp để làm giàu như các nước
khác.. Người làm thợ, ai chuyên tập nghề gì
thì lập thành phường, như thợ mộc thợ nề
thợ rèn thợ đúc đồ gốm v..v.. Phường nào có tục lệ riêng của phường ấy.
Những người làm nghề thợ thường là người ít học, quanh năm ngày tháng đi làm thuê làm mướn chỉ được đủ ăn mà thôi.
Người
thiên hạ đi buôn nước này bán nước nọ, xuất cảng nhập cảng, kinh doanh những công cuộc to lớn kể hàng ức hàng triệu. Người mình cả đời
không đi đến đâu, chỉ quanh quẩn ở trong
nước, buôn bán những hàng hoá lặt vặt,
thành ra bao nhiêu mối lợi về tay
người ngoài (1) mất cả. Thỉnh thoảng có một ít người có mươi lăm chíêc thuyền mành,
chở hàng từ xứ nọ đến xứ kia,
lưng vốn đọ năm bảy vạn quan tiền, thì đã cho là hạng cự phú.
(1) ám
chỉ Hoa kiều, trước 1945 thường gọi là khách, như trong các từ hiệu
khách, phố khách …
Trần Trọng Kim
Việt Nam sử lược,1925
Bôi bác, giả
dối, chỉ cầu rẻ
Cái chí của người Việt Nam ta cũng khác: món quà bán thì
cứ muốn bán cho rẻ và nhiều, thích thế để xiêu lòng khách còn cái phẩm có tốt
hay không, không quan tâm đến. Bát mằn thắn của người mình có đủ cả rau thơm,
xá xíu, đôi khi mấy miếng dồi và một phần chia tám quả trứng vịt. Mằn thắn làm
rất to bột, nặn xuề xoà để trông càng to hơn, nhưng nhân thì hết sức kín đáo và
nhỏ bé vì được một tí thịt chỗ bàng nhạc (2) mua rẻ của các hàng thịt lậu ôi ở
ngoại ô, lúc trút hàng bán rẻ. Nước cũng rất nhiều nữa, dềnh lên như ao sau
trận mưa, nhưng nhạt ví như nước bèo.
Tất cả chỉ bán có năm xu. Tưởng đắt hàng là
phải. Thế mà không. Khó mà lấy nhiều hoa mắt người ta được.
Miễn là thức hàng bán xứng với đồng tiền, đừng
lừa dối người mua, của ngon thì người ta ăn đắt rẻ không kỳ quản. Đó là một
sự thực giản dị trong nghề buôn bán mà tiếc thay nhiều nhà buôn người mình
không biết đến, làm tồi bán rẻ rồi đánh lừa được người mua thì lấy làm sung
sướng.
(2) bạc nhạc, chỉ chỗ thịt dai không có nạc.
Thạch Lam
Hà Nội băm
sáu phố phường, 1940