1986
Nguyễn Đức Mậu nói
với tôi:
-- Hôm đi viếng
Xuân Diệu về, tôi có làm ngay một bài thơ. Nghĩ thương ông ấy chứ, công trình
lớn như thế “công trình kể biết mấy mươi”, mà lúc cái chết đến, vẫn không cứu
được.
- Kể Xuân Diệu với
Huy Cận cũng lạ. Xuân Diệu toàn nói về cái sống (Quả sấu non trên cao, Sự sống
chẳng bao giờ chán nản) còn Huy Cận toàn nói về cái chết. Tập thơ mới của
ông ta, tập Hạt lại gieo, đến 2/3 là nói về cái chết (dù không hay).
Ông Huy Cận cả đời
sướng, đến cái chết của ông ta cũng được chuẩn bị kỹ lưỡng.
- Tố Hữu đến buổi tưởng niệm Xuân Diệu. Trông ông không có khí thế như cũ
nữa. Ông bảo thơ tôi không được phổ biến như Xuân Diệu (là nói thơ tình). Con
tôi chẳng hạn, nó cũng thích thơ Xuân Diệu hơn thơ tôi. Mà tôi cũng nghĩ biết
đâu sau này, con tôi nó chả hơn tôi.
Theo lời Nguyễn Đức Mậu, Tố Hữu có cái tướng lạ lắm. Tai mỏng dính và đỏ
hỏn lên, như miếng thịt bò tái hàng phở nó dát trên bát phở. Chỉ được cái nói
ngọt. “Anh em văn nghệ sống với nhau tình cảm thế này là tốt. Mong mãi mãi sống
được với nhau như thế.”
Rồi Tố Hữu rủ mọi người xuống thăm mộ Xuân
Diệu, ở Văn Điển.
Bài của Phạm Tiến Duật
trên báo Văn nghệ số 8 (1986), cho biết: Tố Hữu nói rằng cái ghế của
Xuân Diệu đấy, không ai được ngồi vào.
Trong những cái cách để đề cao
mình, thật thế, có một cách khôn loại nhất: đặt mình sau người đã chết .
Duật bảo: trong
phê bình ông Diệu đã thành một thứ hoá công.
Tôi nghĩ cái đó
không đúng. Xuân Diệu cũng chỉ là người vừa vừa thôi, không thể là Thánh Thán
được. Trong các bài phê bình của ông, tôi luôn luôn bắt gặp tư thái của một
người khoảng bậc 4 - bậc 5 gì đấy, nói về các cụ thợ bậc 7-8.
Lắm lúc nghĩ cũng
lạ: Trong Xuân Diệu có cả Tố Hữu, Khánh Chi, lẫn Tản Đà, Trần Tuấn Khải. Người
ấy ra đều rất liên tài, và sẵn sàng tán những câu thơ rất công thức của
những Lê Thánh Tông.
Theo Vũ Quần
Phương, Xuân Diệu có loại em cúc cung tận tuỵ như Hữu Nhuận (ông cho Nhuận
nhiều thứ) em tán (Vũ Quần Phương) và em cấu (những người em hay xin tiền).
Có những người như
Vũ Quần Phương và Duật cùng được ông Diệu cưng, dù hai tay này chả có gì chung
với nhau cả.
Nhàn: Một người
như Trần Huyền Trân tuy làm ít, nhưng vẫn có chỗ trong dòng thơ tiền chiến, bên
cạnh Xuân Diệu.
Vũ Quần Phương:
Không đúng. Xuân Diệu ở một trình độ cao hơn chứ. Trong thư gửi ra cho mình,
anh Chế Lan Viên hay nói tới những câu Xuân Diệu, đại loại như “Mây trắng ngang
hàng từ thuở xưa. Bao giờ viễn vọng đến bây giờ”... bảo là không thể coi thường
được.
Nhân nói về việc chọn thơ vào tuyển.
Nhàn: Ai cũng
không hài lòng với mình. Ai cũng đòi thêm.
Vũ Quần Phương:
Không, những ông như Xuân Diệu, Huy Cận, ông ấy biết là ông ấy được nhiều. Định
viết một tập hồi ký mang tên Tôi cảm
tạ cuộc đời cơ mà.
Vào những ngày sau
khi Xuân Diệu chết, nhiều người bảo Tế
Hanh đang thích làm chủ tịch Hội đồng thơ. Họ đều có khía cạnh quan liêu
hoá để thành nhà thơ cung đình. Tế Hanh cũng lắm thèm muốn, tuy nghèo và yếu
ớt hơn.
Nếu có một người lâu
nay vẫn thao túng giới thơ thì đó là Chế Lan Viên. Thường được tiếng là thơ trí
tuệ, thơ giàu suy nghĩ. Gốc người cực
đoan. Lấy những tư tưởng văn hoá để minh hoạ thêm, lấy sự đọc nhiều để làm ý tứ
sắc nhọn thêm. Nhưng vẫn khác với người trí thức ở chỗ:
- Suy nghĩ theo
lối cuồng tín
- Có cái vẻ của phe
phái nào đó chứ không phải người của bàn dân thiên hạ.
- Quá ư là rành
mạch. Hay tổng kết thành 3 điểm, 7 điểm.
Người xu thời thời này qua nhiều rồi, Xuân
Diệu cũng vậy, nhiều khi lại quá lộ liễu. Nhưng cái vẻ gượng gạo cố tình làm
lấy được ấy lại cho thấy Xuân Diệu vẫn còn có một cái gì đó của riêng
mình. Vì cái gì đó mà ông phải nhẫn nhịn quỵ lụy. Vì cần bảo vệ phần thơ trước
1945 của mình mà ông phải khen tràn cung mây những thứ thơ linh tinh ba vạ thời
nay chăng? Có thể lắm. Ông Chế thì mang tất cả mình vào cuộc. Viết về những ông
A, ông B, như là người của muôn đời; viết
về những cơ chế chỉ có hôm nay như là nó đã có sẵn trong trời đất. Hàm
hồ. Đào cùng tát cạn. Nói lấy được.
Năm 1985, khi
tuyển thơ cả đời mình, đến phần thơ trước Cách mạng, Chế Lan Viên chỉ lấy rất
ít.
Có vẻ Chế Lan Viên
muốn phủ nhận chính mình, đối xử với quá khứ của mình theo tinh thần phê phán.
Đọc lại tập Điêu
tàn, thấy Chế Lan Viên có một ý, ý đó nhân lên làm nhiều lần, mà không hề
có sự đa dạng .
Thế còn sau Cách mạng? Ở Chế có hai dòng a/ thơ
tứ tuyệt kiểu Đường thi, thứ thơ mực thước, quy củ, nhưng trong đó, nhà thơ
lại chừng mực ngơ ngẩn, như ở người làm nghề câu dầm. b/ những bài chiến
lược dài, viết theo những cơn bốc chốc lát
Cái phần thứ hai
giống được ông Chế cố ý trình ra trước mọi người. Còn cái phần tứ tuyệt kia là
cái mà ông ủ kín trong lòng. Nhưng tôi phục và thích trở lại với ông Chế ở cái
phần tứ tuyệt này hơn.
Ông Phan Ngọc bảo:
Thơ Chế, đấy là một cách nói trạng. Chế đúng là một người hay chữ, sắp xếp thế
nào cũng được
Tư tưởng trong
những bài thơ chính trị của Chế đơn điệu vụ lợi. Nó phải cố tìm ra một vẻ phảo
bông pháo hoa để gây ấn tượng.
Bàn với nhà thơ Thợ
Rèn (Phạm Lê Văn) về Xuân Diệu.
Nhàn: Xuân Diệu
chưa đến được Thánh Thán.
Thợ Rèn: Đến sao
được. Vẫn là anh học trò làm luận, kỹ càng. Đâu đã biết đùa với đời như Thánh
Thán được. Thường viết về một cuốn sách nào, Thánh Thán cũng chỉ chọn ra một
điểm thật tiêu biểu, rồi nói mọi chuyện xung quanh sự kiện đó. Ông nói văn
chương như một chuyện đời. Mấy ai làm được thế.
Nhàn: ông Tuân
viết Tú Xương là mổ xẻ Tú Xương. Còn ông Diệu có chút khấn vái.
Thợ Rèn: Khấn vái
xuýt xoa, như thể quý hoá lắm. Mà sự thực, vẫn là một ông thày giáo giảng bài,
giảng thật kỹ thật tỉ mỉ, thật tinh tế, nhưng mà là hạ mình xuống.
Nghĩ về Xuân Diệu
một công chức. Nguyễn Minh Châu hay nhìn chữ để nói về người. Hôm đi đưa đám Xuân Diệu ông ghé
tai tôi bảo sao chữ Xuân Diệu viết lại mực thước rõ ràng thế, có vẻ bay bướm mà
vẫn khuôn phép. Tôi nói riêng với anh,
ta không hiểu thời Pháp thuộc, họ rèn
công chức An Nam kỹ lắm.
Xuân Diệu hiểu được
cái hay cái đẹp thông thường, nhưng không vươn tới cái siêu việt phi lý. Trước
1945 Xuân Diệu không chấp nhận Hàn Mặc Tử là vì vậy.
Kém cảm giác hài
hước. Không đùa chơi, không ngang ngược. Đến mức không có cảm giác trò
chơi nữa. Làm mà chơi, chơi mà làm, cái
đó không có.
Một thứ đàn bà, thành
tâm theo cái người cầm vận mệnh mình: một thứ thê thiếp.
Chính ra Xuân Diệu
là người giỏi nhượng bộ, giỏi khuôn mình theo hoàn cảnh. Vừa muốn giữ mình, vừa
khiếp nhược, không dám chống lại hoàn cảnh.
Xuân Diệu hay kể
thuở bé, chất tỉnh lẻ trong mình như thế nào (ở Quy Nhơn, ngóng báo chí Hà Nội)
Xuân Diệu lại là
con vợ bé (?) giàu chất thương cảm chăng?
Nguyễn Đình Nghi
kể: Nguyễn Đình Thi rất sợ mất quyền xuất bản - quyền phát ngôn quyền xuất hiện
trước mặt mọi người. Xuân Diệu, cũng có nỗi sợ đó, coi đó là một tai hoạ khủng
khiếp.
Lúc nào Xuân Diệu
cũng có lối vậy. Hiểu sự phiền toái làm người. Nhưng không dám khác mình. Cũng
tham, cũng tầm thường như mọi người.
Có một nhà thơ
trong cách sống Nguyễn Tuân - chữ thơ với nghĩ đẹp. Có một nhà văn xuôi trong
cách sống của Xuân Diệu -- chữ văn xuôi theo nghĩa phàm tục. Chế Lan Viên từng
nói đùa “Cái nghề văn xuổi từ sau xin chừa”
Tố Hữu và Xuân
Diệu
Hai mẫu người trái
ngược nhau
Tố Hữu là người
nhào nặn lại quan niệm văn học, người định chống lại thứ văn hoá xưa (phía truyền
thống...), người dựng đám thiếu kiến thức mà thừa bản năng dạy, để rồi lại
khinh bỉ họ, người kéo quần chúng xuống, để thấy mình cao hơn lên.
Người kiêu căng
dám so mình với Nguyễn Du (Vả Nguyễn Du đâu có được đưa vào chương trình dạy
trong nhà trường nhiều như vậy). Người không công nhận cá thể, số phận bi kịch
- những hằng số trong văn hoá.
Xuân Diệu ngược
với tất cả những cái đó.
Câu thơ tiêu biểu
của Xuân Diệu, cả trước và sau cách mạng.
Em cung kính đặt
dưới chân hoàng tử
Thái độ quỵ luỵ của
một kẻ yếu. Kẻ ấy biết mình có tài, có cái phần riêng không ai so được. Nhưng
trước những kẻ thực dụng thì lại biết mình chỉ là hương hoa, thêm thắt, thừa
hiểu rằng “người ta” còn nhiều chuyện quan trọng hơn.
Chất đàn bà= cúc
cung tận tuỵ
Nhàn: ông Diệu kỹ
thuật quá.
Nguyễn Thành Long:
đến cả thơ tình của ông ấy cũng vậy. Tỉnh táo trong sự tỏ ra say mê của mình.
Nhàn: Đúng, chưa
bao giờ Xuân Diệu có cái nỗi đau đến không nói được nên lời.
Một phía hèn của
Xuân Diệu - thái độ với Nguyễn Bính.
Phạm Lê Văn (Thợ
Rèn) kể: Xuân Diệu hay nói cả một đời người làm được vài ba bài thơ để người ta
thuộc, cũng đã quý lắm rồi. Mà Nguyễn Bính – vẫn lời Xuân Diệu - thì không chỉ
có vài ba bài.
Chính Xuân Diệu có
lần ghé vào tai tôi: “Nguyễn Bính còn tài hơn Tế Hanh nhiều. Nhưng thằng Tế
Hanh nó ngoan”.
Thế mà, trong tất
cả các bài phê bình của Xuân Diệu, có nói đến Nguyễn Bính bao giờ?
Năm 1958 (lần cuối
cùng?) nhắc tới Nguyễn Bính, bên cạnh Chế Lan Viên,
Thế Lữ.
Tại sao? Có lẽ là
vì ông Tố Lành. Nhưng gần hơn, vì ông Như Phong giám đốc xuất bản văn học sau
1957. Như Phong khinh thằng Nguyễn Bính, cho là thơ học trò chỉ tán gái chả ra
gì. Xuân Diệu đành im tho là vì vậy.
Thợ Rèn: Chính
Xuân Diệu cuối đường cũng hối, cũng đau, thấy ngoài phần trước cách mạng, phần sau
chả được gì.
Đọc lại Những bước đường tư tưởng của tôi , nhớ máy chi tiết.
Người luôn luôn tự
nhủ không thể ngựa quen đường cũ
Tr. 6 Con một ông tú nghèo, dạy học từ nông
thôn chuyển dần lên thành phố
má tôi = một người
vợ bé, sớm bị áp bức trong gia đình.
Thuở bé, bố mẹ ở
xa nhà nhau
Kể lại mê Musset,
Verlaine và mê Tuyết hồng lệ sử
“Bởi thấy những
người tài tình ở trong đời bị thiểu số và bị khinh thường, tôi nghĩ một bài văn
để “chiêu tài tử” gọi nhau từ xưa đến nay, đặng tri ân với nhau, thương lấy
nhau.”
Tr. 19 Tự nhận tư
tưởng mình: một tạp-pí-lù
Tr.23 Một câu
trong bài An cư giữa loài người (1939)
“Tôi như chiếc lá
lo chuyện lìa rừng
buồn đời bé nhẹ,
nghĩ đến muôn ngàn ức triệu lá bạn, mà lại phe phất với đời...”
Xuân Diệu nhắc tới
văn học Pháp, trước 1945, chỉ nhắc Paul Morand và Pière Loti.
Những xu thời nông
nổi
Tr 45 Những Bá Nha
cứ sáng tác đi, lo gì quần chúng thiếu Chung Tử Kỳ.
Tr.51 Hình thức,
kỹ thuật của ta cũng xây dựng trên cơ sở quần chúng.
Xuân Diệu là loại người viết văn mang trong
mình chất lập nghiệp từ rất sớm, từ
hồi đi học ở quê đã mơ ra Hà Nội.
Thèm sự bất tử, tin rằng còn mãi với cuộc đời
này.
Muốn chứng tỏ rằng
mình có đủ tài năng như mọi người. Cũng là một kiểu Julien Sorel chăng? Cũng phải mồi chài mọi người, “đánh đĩ” với
mọi người!
Cho nên, thơ Xuân
Diệu, rất nhạy với cả hai điểm ngược nhau.
- Hướng vào cái
đông vui
- Trở lại cái đơn
độc.Thèm một cái gì
khác mình
Không
có cánh mà vẫn thèm bay bổng
Đi trong
sân mà nhớ chuyện trên trời (Là thi sĩ)
Nếu có một tình
yêu thứ nhất, thì tình yêu của Xuân Diệu là giành cho nền văn hoá Pháp. Thèm
quá, ao ước quá, được động vào người đã đủ sung sướng lắm rồi. Từ văn hóa Pháp
mới sang văn hóa Việt, dù sau này sống bằng văn hóa Việt.
Còn mối tình Xuân
Diệu với cách mạng với Tố Hữu lại là một mối tình của người vợ tảo tần, tao
khang, hiểu nhau, biết cả những phiền muộn của nhau. (Đã có một đời chồng rồi
không thành, nên người đàn bà ấy rất giữ gìn cái hạnh phúc hôm nay mà mình có,
và rất bằng lòng với nó).
Nhưng sao thơ Xuân
Diệu sau cách mạng, không thể có những bài đỉnh như Lời kỹ nữ Hy Mã Lạp Sơn. Tất nhiên, Lời kỹ nữ tiêu biểu hơn, Xuân Diệu cô
đơn trong mối quan hệ với người khác dễ bỏ hơn. Hình ảnh nhà thơ vời vợi một
mình như Hy Mã không hợp.
Sau cách mạng, Xuân Diệu có bài Biển bài Quả
sấu non trên cao - đều là cỡ trung bình.
Đọc Trường ca:
Thấy phục, nhưng không thích, như một vẻ đẹp nhung lụa mà tôi vốn xa lạ!
Tuy nhiên phải nhận nó có cái óng ánh sang trọng của đời sống quý phái.
Nghĩ tới Chế Lan
Viên trước sau 1945. Như một cây táo chặt đi, mọc lên một cây khác. Như một cây
táo mọc cạnh một ngách tường nào đấy, uốn đổi hình hài đi; nếu dỡ bức tường ra,
người ta không thể nghĩ là có một cây táo như vậy.
Tại Chế Lan
Viên quá nhạy với hoàn cảnh?
Tại quá tài?
Tại tất cả.
Chuyện của Nguyễn
Minh Châu (13/10)
- Cái đám tiền
chiến đi theo cách mạng thật là hèn hạ Chính họ nghĩ ra chữ lột xác chứ gì.
Như là nó vừa bảo cởi quần áo thì cởi luôn cả áo lót.
Nhưng sau khi thốt lên cái câu tự đáy lòng như vậy, rồi Ng M Châu lại
bảo mình ở hoàn cảnh các ông ấy rồi cũng phải nói như các ông chứ làm sao được.
Nguyên Hồng hồi kháng chiến (1948) có lần
viết một truyện không được in. Và ông
ghi trong nhật ký “Hời hợt như Diệu, già cũ và khôn ngoan như Tuân ào ạt như
Thi … thì làm sao mà thích được truyện này"
Đoạn nhật ký trên tôi
đọc được ở nhà Nguyên Hồng trong một trang vở cũ nát, hôm theo Nguyễn Kiên lên
Yên Thế. Chắc chẳng ai giữ những đoạn nhật ký ấy làm gì.
Nguyễn Minh Châu
kể:
-- Khi lên thăm mộ Nguyên Hồng, tôi được một người
nông dân dẫn đi thăm cả xóm. Đây chỗ này ông này ở chỗ kia ông kia ở. Và một
cái xà ngang, đây chỗ Ngô Tất Tố tự tử. Thì ra, Ngô Tất Tố đã tự kết liễu đời
mình thật.
Không biết có thể
tin được không.