VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Tính cách thương mại của nền văn chương Sài Gòn trước giải phóng.

I. Lối sản xuất hàng loạt
- Người trong này làm ăn khiếp thật. Viết cũng khiếp!
- Sao thế?
- Vào nhà một cây bút thời danh hồi trước, giờ di tản theo Mỹ, thấy ở phòng làm việc một quang cảnh rất lạ: mười máy chữ sắp hàng giăng giăng. Mười tác phẩm đang viết dở, viết lách cứ như là làm cặp, làm giấy, bằng nhau chăn chắn, cái nào cũng như cái nào, giá kể đóng hộp được, thì không còn làm sao mà phân biệt nổi nữa.
Câu chuyện trên đây, tôi nghe được từ tháng 5.1975. Giữa Sài Gòn hoa lệ, hàng hoá ê hề, chúng tôi sớm nhận ra sách vở cũng là một thứ hàng hoá. Cũng bày bán la liệt. Cũng màu sắc loè loẹt, mà lại đơn điệu, giống nhau, lẫn vào nhau, rất khó phân biệt. Dù rằng câu chuyện thuật lại trên đây, không phải hoàn toàn chính xác với nghĩa của từng chữ, song nếu hiểu theo nghĩa khái quát một chút, thì đúng như vậy. Có sự sản xuất hàng loạt tác phẩm. Có lối viết, lối "hành hạ máy chữ" ghê gớm, như chạy đua theo thời gian, như để đuổi bắt một điều gì đấy ở phía trước dù sau một thời gian nghĩ lại, thì chẳng có mục đích nào khác, ngoài… đồng tiền.

Kể làm sao hết "tên tuổi" của những người viết truyện nhật báo ở Sài Gòn truớc đây. Từ những giọng văn thật thà đơn giản, đến những cây bút kiêu kỳ, bay bướm, đài các. Từ những kẻ sở trường về văn, về truyện, tới những người trước đó làm việc ở một ngành sản xuất có vẻ tuỳ hứng bất thường là thơ… Tóm lại là hầu như phần lớn các "văn sĩ thời danh" ở Sài Gòn trước đây đều tham gia đội ngũ "những người viết truyện nhật trình". Gọi họ là "tài giỏi" thì sao bằng nhận xét đích danh là họ đã làm ăn khá dễ dãi, chiều theo thị hiếu, làm xói mòn khẩu vị người đọc về rất nhiều phương diện. Trong những ngành kinh tế, sự sản xuất hàng loạt phải được khuyến khích, nhưng ở văn chương thì thật là không thể tha thứ. Trong số lớn trường hợp, nó chỉ đẻ ra "những đứa con" giống nhau như lột, chúng chen chúc nhau, lẫn lộn với nhau, tới mức chính những kẻ đẻ ra chúng cũng không nhớ cả thẩy là bao nhiêu nữa.
Thử hình dung ra mấy khâu trong công việc "sản xuất văn chương" trên đây:
- Thứ nhất là điều tra thị hiếu, điều tra thị trường. Phác thử xem lúc này người đọc đang thích đọc gì? Với nếp sinh hoạt vật chất hiện nay, thì sinh hoạt tinh thần sẽ có những nhu cầu gì? Viết loại truyện gì sẽ ăn khách?
- Thứ hai: sản xuất thử, sản xuất chào hàng, đồng thời dùng quảng cáo (bao gồm các phương tiện thông tin hiện đại, các nguồn báo chí, phát thanh…) để lăng xê mốt, kích thích và mời gọi người đọc, người xem.
- Thứ ba: sản xuất theo quy trình đã được nghiên cứu, có tham chiếu nhu cầu người đọc. Và bây giờ mới thật sản xuất hàng loạt, sản xuất thật nhanh, để làm nên một hiện tượng, tạo ra một thứ thời trang thật sự.
 Và cũng phải sản xuất thật nhanh, thật nhiều, để tới tấp đổ về người đọc, làm cho người ta đón nhận, không kịp phản ứng chi hết, phải vơ cho vội, đọc cho xong.
Nếu chậm, nếu để cho người đọc nhẩn nha suy nghĩ trên tác phẩm ấy ư? Một là sẽ bộc lộ các thứ nhược điểm của mình. Hai là bị các đối thủ cạnh tranh, có những món thời trang khác ăn mất khách.
Những ví dụ về sự sản xuất hàng loạt không sao nêu hết. Mai Thảo với những truyện tình không thể nào gọi cách nào khác hơn là "rẻ tiền". Duyên Anh với loạt truyện viết cho trẻ em mà nhân vật trở đi trở lại nhiều lần là Trần Đại. Những "quái kiệt" nổi tiếng khác trong văn giới: Tuý Hồng, Thuỵ Vũ. Cuối cùng "văn chương công nghiệp" được hoàn thành với những cái tên Dung Sài Gòn, Nguyên yêu, Đạt cô đơn, loại sách về Hít-le, về thế chiến thứ hai và về các nữ hoàng dâm dật. Dễ thương vừa ăn khách, có ngay Dễ ghét bổ sung. Nối tiếp sau Bày con trai, dĩ nhiên có Bày con gái, đối nhau chan chát. Và cứ đà ấy mà "thừa thắng xông lên" thì không biết người ta còn sản xuất ra những gì, nhưng cam đoan các "sê - ri" mỗi ngày một dài, một nhiều tập hơn. Chợ trời văn chương đã là một lĩnh vực chứng minh đầy đủ quy luật giá trị trong chế độ tư bản: sản xuất chỉ làm được việc lấp đầy chỗ trống mà chính nó tạo ra một cách  cố ý.
2. Những sản phẩm của quảng cáo
Có thể nói cuốn sách từng làm sôi nổi dư luận Sài Gòn một thời, cuốn Làm thế nào để bán một tổng thống, là một tác phẩm rao giảng quyền uy của quảng cáo trong xã hội tư bản hiện đại. Rải rác, có thể ghi nhận được một vài câu thú vị:
 Trong nửa đầu thế kỷ XX, cái khuôn cũ kỹ về người anh hùng đã bể ra từng mảnh. Người ta đã tạo ra một khuôn mới, để cho mẫu người mới có thể bán được. Những anh hùng hiện đại có thể được sản xuất ra hàng loạt và tung ra thị trường một cách dễ dàng. Trong thực tế, những nét tính làm cho một người (đàn ông hay đàn bà) được ca ngợi, trên quy mô quốc gia, cho chúng ta thấy sự không mới của con người.
- Nó (quảng cáo) đặt lại vấn đề về quan niệm chân lý của chúng ta... Hình thức thay thế nội dung, trở thành nội dung. Phương tiện trở thành cứu cánh nội tại.
… Khi nghe người ta đã làm áp - phe cả trong chính trị, đã coi nguyên thủ một nước, cũng như một món hàng cần phải lo liệu bán cho trót lọt, thì chuyện buôn bán văn chương, dùng quảng cáo để chỉ đạo thị trường văn chương, cũng là chuyện dễ hiểu. Mỗi ngày, người ta lại tìm thêm được những liệu pháp mới để bán sách.
Nhìn cung cách làm ăn một thời của những người thuộc nhóm Sáng tạo người có kinh nghiệm văn học dễ thấy ở đây cách kết bè kéo cánh thành phe nhóm, thao túng dư luận, và đưa nhau… lên tận mây xanh của thời tiền chiến. Người nọ suy tôn người kia. Cả nhóm là những nhân vật mở đường của lịch sử văn học một thời. Trong khi Nguyễn Sĩ Tế, Trần Thanh Hiệp ca ngợi Thanh Tâm Tuyền, Thanh Tâm Tuyền cũng không tiếc lời khen thơ Tô Thuỳ Yên, và Mai Thảo thì trân trọng xác định ý chí tiên phong của.. cả bọn.
In sách, giới thiệu trên báo, mang thơ phổ nhạc đại khái đây là cách họ lăng xê một số, gọi là tên tuổi mới. Lập tức, một người xưa nay ít được biết tiếng, vụt trở thành thời danh, đi đến đâu cũng thấy có người nhắc đến tên tuổi. Cố nhiên, ở đây có vấn đề thuộc về cái thị hiếu chung, cái gu của công chúng, họ dễ dàng chạy theo mốt, sẵn sàng thích nhà văn nọ, nhà thơ kia để làm le, làm phách, dù trong thâm tâm họ chẳng hiểu gì cả. Và càng những triết gia điên chữ, cuồng chữ, càng những nhà thơ ấm dầu, lập dị, họ càng thú vị.
 Nói như tác giả Làm thế nào để bán một tổng thống:
 Trong địa hạt quảng cáo, những vấn đề gai góc không phải do sự thiếu liêm sỉ của những người gạt gẫm chúng ta, mà do sự thích thú của chúng ta muốn bị gạt.
Tuy nhiên, những mánh khoé trên đây khi vào tay bọn con buôn văn hoá, mới thật sự phát huy hết ma lực của nó. Đó là thời kỳ Lệ Hằng nổi lên "chói lọi" một hai tháng lại ra một cuốn tiểu thuyết vài trăm trang, in rất trang trọng. Là thời kỳ của Dung Sài gòn, Võ Hà Anh, Thu híppi v.v… In thật nhiều, thật đẹp, sách ra thật dồn dập, phối hợp các ngành báo chí, phát thanh mở những chiến dịch tuyên truyền, rốt cuộc các món hàng văn hoá đã được quảng cáo lăng - xê cũng thành một thứ hàng rất thông dụng, đến tay nhiều bạn đọc trẻ tuổi, ngự trị trong nhiều tủ sách gia đình, đánh dấu sự nghiệp văn chương thì ít, mà chứng nghiệm cho sức mạnh của quảng cáo thì nhiều hơn. Quảng cáo đã thật sự chi phối dư luận, tạo ra nhu cầu rộng ở thị trường, và dọn đường không phải cho những tác phẩm hay, mà là những tác phẩm người ta đã bỏ vốn kinh doanh và cần kiếm lời.
Bây giờ thì chính các phe nhóm văn chương cũng phải bàng hoàng vì… hậu sinh khả uý, những con buôn văn hóa đã giỏi hơn các nhà văn. Kênh kiệu, đài các, khinh bạc như Mai Thảo, cũng chưa thể nghĩ ra lối chào khách như tự xưng là những Nguyễn Yêu, Đạt cô đơn, và đề ở bìa sau mấy chữ Đạt cô đơn là ai ? thật to. Viết khoẻ như Duyên Anh cũng chưa bao giờ làm nên một chiến dịch lớn, như người ta đã làm với Lệ Hằng và đang định làm với Đỗ Thị Khôi Nguyên. Bề ngoài, họ lên tiếng mạt sát những kẻ hậu sinh kia là… "quảng cáo"? Nhưng mạt sát đấy mà lại bắt chước đấy: cách làm ăn "công nghiệp" kia cũng đã lan sang giới cầm bút hạng trên, vốn có một thời đầy mộng ước. Trên Văn, trên Vấn đề, cũng như trên Khởi hành, đã bao nhiêu "đứa con hoang" của Mai Thảo được quảng cáo theo lối như vậy? Và bao nhiêu tác phẩm của Tuý Hồng và Thanh Nam, của Nguyễn Đức Sơn và Nguyễn Xuân Hoàng… tất cả, gần như tất cả, còn có lối quảng cáo nào khác? Không làm ra mô - đéc, thì làm ra vẻ điên loạn, kỳ dị. Đó là trường hợp của mấy người, những Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, những "nhà thơ", "nhà triết học" hũ nút, hoặc Nguyễn Hữu Hiệu cuồng chữ về sau.
Tóm lại, cả trong lối khoa trương "không biết ngượng" nhưng lại vẫn là lặt nhặt, "cò con" của từng người viết, cho tới cách tồn tại chỉ bằng quảng cáo, duy nhất nhờ quảng cáo, chúng ta bắt gặp một hiện tượng mới trong sinh hoạt tinh thần: văn chương hoàn toàn trở thành hàng hoá, hơn nữa, một thứ hàng công nghiệp, hàng chợ trời, chạy theo thời trang và sống khỏe bằng sự đắp đổi thời trang. Qua một số trích dẫn ở trên, chúng ta đã thấy chiêu thức chủ yếu của những kẻ làm quảng cáo: bề ngoài mơn trớn, vuốt ve thị hiếu công chúng, bề trong là một thái độ khinh rẻ con người, lợi dụng con người. Nghiên cứu tình hình thị trường văn nghệ Sài Gòn trước đây, chúng ta thường bắt gặp những "cơn lốc", những vụ "bùng nổ" của thị hiếu: đột nhiên trong một thời gian nào đó, rất nhiều người lao mình săn đuổi cuốn sách này, tập nhạc kia. Nào đâu có phải sự ham thích văn chương lành mạnh? Không, chẳng qua đó chỉ là những dấu hiệu chứng tỏ tình trạng triền miên khủng hoảng của một xã hội. Trong cái bế tắc chung về mọi mặt đời sống, văn chương đã thật sự bị biến thành vật hy sinh rẻ rúng.
3. Rẻ, dễ làm, chiều khách hay là những đặc điểm của hàng hoá văn chương
Chợ trời văn chương có những đặc điểm riêng ví như, nó rất chiều người. Nó chạy theo những thị hiếu tầm thường của người đọc. Vậy mà nó lại khá giống nhau, nó đơn điệu đến như là… vô tính. Cho nên, thật giả khó phân, sau một món hàng ăn khách, rất nhiều thứ hàng giả dược sản xuất hàng loạt.
Những đẵn mía được tiện từng khẩu nhỏ vừa miệng người ăn. Những trái cóc gọt vỏ, có sọc que tay cầm cho sạch. Những bộ quần áo nhiều màu sặc sỡ lơi lả mời chào. Đó là kỹ nghệ phục vụ. Khai thác bằng mọi cách các mặt thị hiếu ở con người, tìm cách tô vẽ rồi chiều theo những thích thú, cái đó đã trở thành phong cách sống ngự trị cả một xã hội. Thì dĩ nhiên, nó cũng trở thành cái phong cách của văn chương.
Và đó chính là bi kịch của văn hoá trong xã hội tư bản chủ nghĩa hôm nay nói chung. Đến cái xã hội tao loạn, hỗn hào ở miền Nam trước ngày giải phóng, nó lại hiện ra, vừa hài hước, vừa bi thảm không kém đâu hết.
Như trên đã nói, vào những năm 56-60 có những kẻ còn hy vọng ở một nền nghệ thuật có vai trò nhận thức, chứng nghiệm cho một thời đại. Đây đó, còn đuợc nhắc tới một thứ lý luận chống lại thứ nghệ thuật "chiều lòng người, non nớt, giả tạo" và khao khát một ngày có thể "nắm chắc sự thật của con người thế hệ", xác  nhận "sự đắc thắng của trí thức, trí tuệ con người thế hệ trước đời sống, trước sự vật". Khốn nỗi, chính kẻ hô hào một thứ nghệ thuật như vậy lại đi đầu trong việc sản xuất ra một thứ nghệ thuật đề cao buông thả, khơi gợi dục tính cùng những bản năng thấp kém với thứ bút pháp văn chương ve vuốt, chiều đãi thị hiếu hạ đẳng. Rốt cuộc, thứ nghệ thuật "đánh dấu rực rỡ sự đi qua, sự có mặt, tác động ghê gớm của con người trước xã hội, trước sự vật" lại là những sản phẩm kiểu như Mười đêm ngà ngọc, Để tưởng nhớ mùi hương, Sống chỉ một lần!
Cả những ngòi bút chống cộng như Võ Phiến cũng phải hoà mình theo cơn lốc dục tình, và trong nhiều truyện ngắn, tạp bút tạp luận (ký Võ Phiến) nhiều mẩu tin tức thời sự (ký tên Trang Tiên, Thu Thuỷ), chúng ta bắt gặp một sự pha phách những chữ nghĩa ý tưởng của tính dục đôi khi rất lố. Còn nói chi đến các cây bút mới vào nghề. Đất chật, người đông - muốn tìm được chỗ len chân họ phải đi xa hơn trong việc chiều người, chài khách. Có khi họ cố ý làm ra vẻ trâng tráo, miễn sao gây được sự chú ý. Một người như Lệ Hằng đã có lúc thú nhận: viết để trả thù đời, để trút tất cả những hằn học từng phải chịu dựng hàng ngày lên mặt giấy. Khi tìm ra được cái kế để sinh nhai - tức viết thật khiêu khích, thật mùi mẫn- thì con người nạn nhân hôm trước đã tự mình biến thành tội phạm, góp thêm một giai điệu trong bản nhạc điên loạn.
Rút lại, dù không kể những Dung Sài Gòn, Thu híp-py, hãy tính từ Mai Thảo, Võ Phiến tới Lệ Hằng, Trần Thị Ng H. đã thấy một xu thế chung. Của cải văn chương làm ra có vẻ nhiều, nhưng thật ra cùng theo một kiểu, bị hướng dẫn bởi một thứ mốt nhất định. Chúng vừa sặc sỡ, lại vừa đơn điệu, và ngày càng trở nên giống nhau. Cộng với lối sản xuất hàng loạt, văn phẩm càng ngày càng mất đi phần cá tính sâu đậm của từng người viết. Vào quãng 1974 đầu 1975, người ta đã nói tới những trường hợp người đọc cầm đến quyển sách như một thứ đồ vật, nghĩa là không cần biết tên tác giả là ai, sách ai thì cũng vậy, mua để đọc trong chốc lát, rồi liệng đi. Quả thật, cái gọi là tác phẩm văn chương cũng giống những sản phẩm không tên, không nhãn hiệu, không giấy bọc - những sản phẩm tự do mà người ta thấy bán đầy ở các chợ trời. Thật giả khó phân. Sau một món hàng ăn khách, rất nhiều hàng giả được sản xuất tiếp tục.
Làm sao khác được, đấy là cái lô gích tất yếu, cái đích phải tới đối với thứ lý luận nghệ thuật chối bỏ lương tri, không chịu công nhận chức năng phản ánh đời sống, chức năng giáo dục của văn học nghệ thuật. Khi người ta đã xem đồ dùng như một thứ ký hiệu, và mua xe theo mốt, may sắm để giải thoát một ẩn ức khó chịu… thì cố nhiên, sách vở chỉ có thể đóng vai trò rẻ rúng hơn: một thứ đồ dùng trong chốc lát, một cách đùa chơi, một vật trang hoàng cho vui mắt. Chưa bao giờ Sài Gòn lại lắm những "văn nhân" "thi sĩ", như trong thời kỳ văn chương trở thành hàng hoá tiêu thụ này.
4. Văn chương mới, kiểu "nhà văn" mới 
Về chính bản thân những người viết, người làm ra các sản phẩm văn chương, trên đây chúng ta cũng đã nói tới một số khía cạnh. Nhà văn đẻ ra tác phẩm, nhưng tác phẩm lại làm nên nhà văn. Từ nguyên lý đó mà suy, có thể hình dung ra sự hình thành lẫn số phận cả một lớp người viết, đám nhân công chủ yếu sản xuất ra các sản phẩm nói trên. Không một kẻ nào giải thoát cho nổi, guồng máy thương mại đã quay lạt mềm buộc chặt, dù có giãy giụa mấy người ta vẫn bị cuốn hút vào đó. Sự biến cải đến dần dần, đến lúc nhìn lại mình, thì đã hoàn toàn thay đổi.
Mối quan hệ giữa người cầm bút và tác phẩm bị tha hoá. Những tập bài mà người ta giao cho các báo hàng ngày nào phải là nơi gửi gắm tâm sự riêng tư? Không, đó chỉ là một thứ hàng làm theo đơn đặt sẵn, hơn nữa, thứ hàng người ta nhắm mắt làm cho qua chuyện, để kiếm sống, khi làm xong, tự mình cũng thấy không ra làm sao, ngán ngẩm đến mức không muốn nhìn thấy mặt mũi nó nữa. Gọi là của mình đó, mà như của ai và thực sự đã là của những ai khác. Những kẻ làm nghề phát hành, tác quyền nắm đến năm, sáu mươi phần trăm, những kẻ đó mới thật sự là chủ nhân của cả nền văn chương. Trong con mắt họ, giới cầm bút chỉ là loại làm thuê viết mướn, một thứ nhân công rẻ mạt. Sự nhẫn nại của người cầm bút lúc này chỉ là nhẫn nại làm theo những yêu cầu có sẵn. Giá rẻ mạt, nhưng hàng cần nhiều, nên càng cần phải viết, để kiếm sống. Và vì sự nhạt nhẽo của những sản phẩm đã làm ra như vậy, người ta lại càng phải "làm tới,", để góp nhiều cái nhạt làm nên một ấn tượng đậm, lấy nghề viết làm sinh kế lâu dài.
Mối quan hệ giữa những người viết cũng không tránh khỏi tính cách thương mại. Đại khái, đó là mối quan hệ của những kẻ cùng làm công cho một ông chủ, phải tìm cách hất cẳng nhau mới sống nổi.
 Những người theo dõi tình hình chợ trời chữ nghĩa hôm qua, có thể tìm đủ thí dụ: hoặc là cái quảng cáo sau đây, từng làm cho Văn Quang điếng người:
Bạn đã từng say mê đọc nhà văn quân đội Văn Quang. Bạn đã nô sức chờ xem phim Chân trời tím phỏng theo tác phẩm của Văn Quang. Đầu tháng lương này bỏ ra 300 để đọc người đã dạy Văn Quang viết: Thế Phong!
Hoặc là mối tình nghĩa của những người cộng tác với Nguyễn Đình Vượng. Khi ông chủ còn hấp hối, cả Mai Thảo lẫn Nguyễn Xuân Hoàng cùng nặng lời thề thốt là sẽ đứng bên nhau, duy trì tờ Văn suốt đời. Nhưng chỉ đâu hơn tháng sau, Mai Thảo đã ném Nguyễn Xuân Hoàng ra khỏi cửa và còn gây chuyện với một người mà Mai Thảo đã loại từ trước là Trần Phong Giao. Bao nhiêu lá thư ngỏ. Bao nhiêu vụ kiện nhau. Rồi chuyện cùng tranh nhau dịch một tác giả nước ngoài đang ăn khách. Rồi chuyện đạo văn, ăn cắp tài liệu nghiên cứu ở miền Bắc. Mặc dù tỏ vẻ khinh thường các thứ giải thưởng, người ta vẫn ngấm ngầm gian lận trong các kỳ làm giải thưởng, để xoay lấy tí lưng vốn… Những mối  quan hệ "tuyệt vời" này, thỉnh thoảng lại được đưa ra ánh sáng, mang lên sách báo, đến nỗi người ta ghê sợ về tình trạng sống của giới cầm bút, một người lâu ngày mới về miền Nam, như ông Trần Văn Khê, về Sài Gòn năm 1974, đã có lần phải kêu lên như vậy.
Đến đây, mới thấy hết ý nghĩa thật sự của mấy chữ "tự do" mà những người cầm bút ở Sài Gòn từng nhắc đi nhắc lại. Không, bề ngoài thì hình như họ không bị ràng buộc gì hết, họ chỉ bị chi phối bởi một thứ: đồng tiền. Nhưng chỉ cần như thế đã đủ lắm rồi, vì dụng ý của kẻ chi tiền cho cả xã hội miền Nam này là như thế nào, thì còn ai không biết.
So với hồi còn ở vùng tạm chiếm Hà Nội, dưới ách quân đội viễn chinh Pháp, thì ông chủ mới lúc này khá lịch sự, tế nhị, không mấy khi ra lệnh trực tiếp, không cấm đoán này nọ, lại còn khuyến khích làm ăn tự do nữa. Nhưng sau độ năm năm, mười năm nhìn lại mà xem, sao tất cả đều không ra khỏi một xu thế chung? Sao có một sợi dây ràng buộc nghiệt ngã, mà càng ngày người ta càng thấy nó thắt chặt? May lắm, người ta chỉ còn được cái tiếng tự do hão, mà sự thật là "tự do" ảo tưởng, lảng tránh, "tự do" trong địa ngục. May lắm, người ta chỉ còn tự biện hộ được bằng cách nhìn vào chung quanh: Trông xem, có phải một mình tôi đâu?
Khi nhận ra rằng cả guồng máy xã hội đã chạy, trong cái guồng máy ấy gần như các đồng nghiệp không ai là không góp mặt, thì cũng là lúc người ta có thể xoa tay bằng lòng với mình. Mô tả cái tình trạng thương mại của văn chương Sài Gòn hôm qua, cũng là bước đầu  để giúp cho chúng ta hiểu sự hoành hành, phát triển chủ nghĩa hư vô là chủ đề chúng tôi sẽ đề cập trong một bài viết tiếp.

Viết lần đầu 1976. Sửa lại 1980
أحدث أقدم