Nói tới Eluard, thì ngay
lập tức người ta phải nghĩ tới L.Aragon (1897-1982).
Trên trang blog ngày
1-1-2015, tôi đã nhắc tới nhà thơ một phần, nay sẽ nói tiếp về ông.
Trước hết xin giới thiệu
một bài thơ của Aragon thường trở lại trong đầu óc tôi, mỗi khi
nghĩ về sự vận động tư tưởng của bản thân và một số bạn bè văn nghệ trong
những năm này.
Tiếp đó là một số
suy nghĩ có liên quan tới bài thơ.
**** [Không đề ]
Cuộc sống tôi trôi
qua như những luống cày bốc lửa trên bầu trời
Tôi nghe tận đáy sâu
tiếng bước chân mình vọng vang xa ngái
Tiếng hát tôi
tưởng đã hỏng rồi đã xếp xó rồi lại ngân lên lần nữa
Trên đầu ngón tay tôi
lặng lẽ tính những ngày những tháng những năm
Đối với tôi vượt lên sự
dối gian tràn đầy cuộc sống
Chỉ có tình yêu tôi như
một cây sồi đơn độc
Chỉ có tình yêu tôi run
rẩy một trò chơi
Trên đời này,
ngoài nó ra chẳng còn gì, chỉ có nó mà thôi
Tất cả những gì
tôi làm hướng tới em, là để cho em
Người làm vườn mỹ lệ đây
lá cuốn cả vào phòng
Những bài thơ tôi viết,
vẻ dại điên mỗi ngày lại hiện ra khuôn mặt mới
Tất cả để em yêu và mãi
mãi yêu em.
Từ sự tồn tại của tôi,
như một chiếc gai cây, sự thất vọng lớn bật lên
Em làm quà cho tôi một
mặt trời ngữ ngôn sáng chói
Tất cả những gì tôi gọi
lên, có em trong từng bước
Em hồi phục trái tim
tôi, em nặn lại nó rồi
Chuyện thật lạ
lùng hãy nhớ lại xem
Hầu như vào những năm
lớn khôn ai cũng ra đi lần nữa
Để ghi lại những
chuyến đi, có thể vẽ cây vẽ cỏ
Nhưng cần vẽ hơn
cả chính là thế giới bên trong của mỗi con người
Tất cả sự ví von
đều vô hiệu, hình ảnh cần thiết chẳng tìm ra
Nung nóng mọi chữ nghĩa
lên vẫn không đủ nói về ngọn lửa
Trong những đôi mắt thẳm sâu, hạnh phúc và ngọn lửa chập chờn nhảy múa
Trong những đôi mắt thẳm sâu, hạnh phúc và ngọn lửa chập chờn nhảy múa
Có thể kể làm sao
với ai chưa thấy nó bao giờ
Hình như nhiều lúc tôi
quên mình nhiều đau khổ
Thật đau điếng đi,
khi bẻ gẫy tay mình
Tôi ruồng rẫy thơ, như
với bạn bè dứt mọi mối quan hệ
Nhưng con đường rồ dại
đời nào tôi chịu là chẳng có em
Tôi đã nói rằng thế giới
này chẳng có gì kỳ diệu
Cái đích mà tôi đi tới
thì không có tôi mọi người khác cũng đủ lo toan và công việc
Mỗi người trong họ nhìn
tôi như một kẻ bề trên
Vâng tôi đã khóc
vì không có gì khác họ, nhưng là khóc trong tay em
Người ta nói với tôi khi
không có bánh mì câu chuyện về hạnh phúc chỉ chuyện huyên thiên
Bầu trời thấp xuống kia
buồn bã trong những giờ u ám
Và mỗi chúng ta sẽ sống
sao trong những năm cay đắng
Thế đấy
Nhưng tôi nhìn
thấy một bầu trời khác rồi khi ở giữa tay em
Những đau xót của một
nhà thơ
khi buộc phải thay đổi
niềm tin chính trị
Số phận của phần lớn các
nhà thơ hiện đại là phải dính tới chính trị. Aragon lại có cả một mảng thơ lớn liên quan đến sự dấn thân của ông trong chính
trị.
Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng –để ca ngợi cái tổ chức mà mình có mặt, còn câu
thơ nào hay hơn câu ấy.
Nhưng rồi, như rất nhiều
người cùng chí hướng của mình trong thế kỷ XX, sau đó, niềm tin của ông đã thay
đổi.
Luôn luôn ông là người
của sự quá đáng. Lúc tin ông cũng tin quá đáng, mà sau đó không tin cũng
quá đáng.
Về lý trí, ông chấp nhận
mọi sự thay đổi, trong khi về tình cảm, ông như muốn kêu trời, ông
như chết lặng đi vì sự thay đổi đó với ông là quá sức.
Tôi vốn thích các nhân
vật đương thời coi là phức tạp, nên cứ để ý theo dõi ông mãi.
Từ thời điểm của
thế kỷ XXI này nhìn lại, chúng ta có thể bảo là ông đã rất dũng cảm.
Con tim của ông đã được
một trí tuệ sáng suốt mách bảo để dám vượt qua lòng tin của mình thời trẻ, mà
làm một cuộc đảo ngược thiết yếu.
Nhưng hồi ấy, người ta
đã gán cho các ông đủ thứ tội lỗi, nào là suy đồi nào là phản bội, những cái
tội tầy đình mà một người yếu bóng vía không chịu đựng nổi .
Run rẩy đớn đau,
nhưng Aragon đã thay đổi. Quá trình dằn vặt của ông được miêu tả trong
cái công thức sau đây mà tôi nghe được qua lời kể của Nguyễn Thành
Long một nhà văn đàn anh hay đọc văn học Pháp đương đại “tối nào cũng tính
tới chuyện ra đảng, mà sáng nào lại cũng phải nghĩ lại là phải ở lại đảng để
đấu tranh cho niềm tin mới của mình”.
Từ trước 1975, đọc thơ
Aragon trong giai đoạn ông có những chuyển biến trong niềm tin chính trị
mà bài thơ trên diễn tả, quả thật là tôi -- với tư cách một con người đang sống
ở Hà Nội, cái xứ sở bị bịt kín mọi thông tin đa chiều -- cũng không
biết là ông đúng hay những người chê trách ông đúng nữa.
Nhưng, những năm đó tôi
đã mang máng cảm thấy có lẽ chuyện chính trị ở một nhà thơ chẳng mấy quan trọng
như chúng tôi hằng nghĩ. Mà cái cần được chia sẻ đặc biệt là người nghệ
sĩ đã thể nghiệm sự thay đổi ra sao. Tức là tôi thích tìm trong
những vần thơ ấy ở cái khía cạnh tâm trạng của người đã tiêu hóa sự
thay đổi của mình, cái dấu ấn nó để lại trong tâm trí nhà thơ. Đây mới
chính là những bài học.
Được viết ngay từ
1942, vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng được đặt sau một câu đề từ:
Than ôi! Như Tô phải hay
những kẻ giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với
Đan Thiềm.
Câu nói nổi tiếng tới
mức nhiều người không đọc và không thích vở kịch nữa vẫn cứ hay đọc lại
nó.
Vả chăng sinh thời
Nguyễn Huy Tưởng, ông là một người phụ trách chủ yếu của Hội văn nghệ VN, nên
người ta cũng không bới ra làm gì.
Chứ thử nghĩ kỹ sẽ
thấy, đây là một thứ tuyên ngôn nhấn mạnh tính chất phi tư tưởng của văn chương.
Nhà nghệ sĩ không buộc phải bao giờ cũng đúng; nhiều khi họ đáng yêu đáng đọc lại ngay ở chính cái phần lơ mơ, kể cả cái gọi là sai lầm của họ.
Họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ đúng, trung thành, nhất quán nhưng không có một thứ mùi vị gì .
Nhà nghệ sĩ không buộc phải bao giờ cũng đúng; nhiều khi họ đáng yêu đáng đọc lại ngay ở chính cái phần lơ mơ, kể cả cái gọi là sai lầm của họ.
Họ vẫn đáng trọng hơn những kẻ đúng, trung thành, nhất quán nhưng không có một thứ mùi vị gì .
Trong một lần trò chuyện
với nhà nghiên cứu thông thạo văn học phương Tây hiện đại Đặng Anh Đào, tôi nghe chị nói khẽ, nhưng tha thiết
như một lời tâm niệm:
-- Với các nhân vật lớn,
chính nhân cách lại quan trọng hơn tư tưởng rất nhiều.
Đối chiếu với những vận
động trong tư tưởng của những người trong giới cầm bút chung quanh, tôi chỉ thấy người ta hoặc là
ù lì trơ tráo, bị ép chết trong những niềm tin hồi trẻ, hoặc là chuyển sang cái
trận thế đối ngược một cách quá dễ dàng, dễ dàng như người ta quay ngoắt một
chiếc xe đạp.
Aragon, như trong
bài thơ trên đã bộc lộ ông cho thấy một tâm thế khác.
Rồi ông cũng vượt lên
trên cái sức ép bão bùng cuả chung quanh đối với một người thay đổi. Ông
tìm thấy một chỗ dựa cuối cùng ở tình yêu. Ông bảo tình yêu sẽ cứu rỗi
tất cả. Trong khi bảo mình như kiệt sức như tuyệt vọng, thì ông lại cảm thấy
mình mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Con người nhân bản trong ông đã thay thế con
người chiến sĩ. Mà cái phần nhân bản ấy mới là tinh chất làm nên một nhà thơ.
1-2015
Louis Aragon , con người
của những đam mê và lầm lạc
Ngay cả trong thời kỳ
kháng chiến 1946-54, nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam theo tiếng gọi của kháng chiến
vẫn chuyền tay nhau báo chí sách vở viết bằng tiếng Pháp, để tiếp thêm cho mình
hiểu biết và nghị lực.
Và trong những ngày đó,
bên cạnh những Maurice Thorez, Jolio Curie, Paul Eluard v.v... có tên một người
Pháp nữa, trở đi trở lại trong tâm trí nhiều văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam,
đó là Louis Aragon: một Aragon từng nát lòng vì Paris đang rên xiết dưới gót
giày phát xít khi "suối đã đục dòng chỉ lệ còn trong"; một
Aragon có thơ được in bí mật, được người dân trong vùng địch hậu chuyền tay
nhau và một Aragon ca ngợi Đảng của mình bằng những lời đẹp nhất:
Đảng đã cho tôi sáng mắt
sáng lòng
Trước như tuổi thơ tôi
nào biết được
.,.
Đảng đã cho tôi màu sắc
nước non nhà...
Lời thơ có gì gần gũi,
như chính nó được viết bằng tiếng Việt.
Nhưng đó không phải là
hình ảnh duy nhất về Aragon mà chúng tôi được biết. Từ sau 1956, khi mà nhiều
trí thức châu Âu trải qua những xao động lớn lao về tư tưởng, hoặc nói như chính
Aragon, khi mà gió đã xoay chiều, thì một Aragon khác lại hiện ra
với những người cầm bút nơi đây, Aragon của tiểu thuyết Tuần lễ thánh,
những tiểu luận như Tôi lật con bài của tôi, Phải gọi sự vật bằng cái
tên của nó, và tập thơ Quyển truyện bỏ dở với bao đớn đau
day dứt:
- Tôi chờ đợi
một trùng dương hạnh phúc
Một tình ái không vướng
dây trần tục
Suốt bình minh đến chiều
xẩm mơ hồ
Nhưng cuộc đời thực tại
chẳng nghe cho
Đời tạo những diệu kỳ
theo kiểu khác
Đào Xuân Quý dịch
hay:
- Hạnh phúc là
một tiếng vô cùng chua chát
Ma quái nào che giấu
nghĩa làm chi
Tóc ảo mộng và bàn tay
huyền hoặc
Những cặp tình nhân ngày
xưa đã mất
Hạnh phúc như vàng kia
ôi tiếng dị kỳ
Nó lăn trên sàn như
chiếc nhẫn lăn đi
Ai nói đến hạnh phúc mắt
thường buồn da diết
Như tiếng than dài nỗi
tuyệt vọng chua cay
Dây đàn dứt trong tay
người đánh nhịp
Nhưng tôi cho hạnh phúc
con người là có thật
Không phải trong mơ
không phải trong mây
Mà nơi bến lạ bờ xa trên
quả đất này
Tế Hanh dịch
Cũng may là ngay từ
1960, một tập thơ riêng của Aragon, đã được in ra với sự đóng góp của một lớp
nhà thơ Việt Nam thạo tiếng Pháp. Đó là những Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận,
Tế Hanh, Đào Xuân Quý, Nguyễn Viết Lãm...
Nói may vì từ đó trở đi,
nhất là từ sau 1965, ở Hà Nội chúng tôi, Aragon chỉ được nhắc tới một cách nhỏ
giọt, và so với con người thật, và khối lượng tác phẩm đồ sộ của Aragon, thì
chúng tôi được biết là rất ít, quá ít nữa.
Song cái lạ là ở chỗ ấy,
có khi cái mà người ta không biết lại gần gũi hơn cái mà hàng ngày người ta vẫn
thấy: từ đó cho đến khi nhà thơ qua đời, và ngay cả những năm về sau, Aragon
trong một người như tôi đồng nghĩa với cả sự kiên trì làm người chiến sĩ lẫn sự
dằn vặt trăn trở tìm đường mà bất cứ ai, sống với nghề cầm bút, từng có lúc
trải nghiệm. Nhà thơ từng nói về mình, qua sự phân biệt với những người khác ở việc đi tìm chân lý.
"Tôi biết có những
người sinh ra với chân lý, từ trong nôi họ đã không bao giờ lầm lạc, vì họ đã
đến nơi rồi từ lúc còn thò lò mũi xanh. Họ biết điều gì là tốt, từ trước đã
luôn luôn biết như thế... Tôi không giống họ. Chân lý không được phát hiện với
tôi vào lúc chào đời. Tôi không được cha tôi, cũng chẳng được giai cấp của gia
đình tôi chỉ bảo cho. Tôi học hỏi được điều gì đều phải do lao tâm tổn trí, tôi
biết được điều gì đều từ kinh nghiệm xương máu mà ra. Không có một niềm tin
chắc chắn nào đến với tôi mà không phải qua con đường hoài nghi lo âu, đau đớn
của từng trải".
Thêm vào đấy, một Aragon
hào hoa phong nhã, Aragon trong mối tình điên dại với Elsa Triolet, Aragon và
cuộc tìm tòi một thứ văn xuôi ảo, trong những tiểu thuyết Giết chết,
Blanche hay lãng quên, bấy nhiêu hình ảnh nối tiếp nhau để làm nên
Aragon của một tình yêu không dễ dãi.
Có một mẩu chuyện tuy nhỏ mà khiến tôi nhớ mãi, mỗi khi nhắc đến cái tên
Aragon. Đây là câu chuyện liên quan đến nhà văn Nguyên Ngọc. Tác giả Đất
nước đứng lên thuộc loại cán bộ quân đội được điều động trở lại chiến
trường miền Nam rất sớm, từ 1962, và ông cũng thuộc loại ở đó kiên trì bậc
nhất. Từ trước 1975, nhiều lần cấp trên tỏ ý sẵn sàng để ông ra Bắc chữa bệnh,
Nguyên Ngọc vẫn xin phép được ở lại, chỉ yêu cầu thỉnh thoảng gửi vào cho ít
sách. Trong số những cuốn sách mà Nguyên Ngọc nhờ người bạn mình ở tạp chí Văn
nghệ quân đội là Hà Trì gửi vào năm ấy (trước khi đi chiến
trường, có gì Nguyên Ngọc bó lại đem gửi Hà Trì cả), có một cuốn sách tiếng
Pháp. Cuốn này Nguyên Ngọc mua được ở Moskva trong một chuyến thăm Liên Xô
khoảng 1957-58 gì đó. Ấy là cuốn Le Roman innachevé (Quyển
truyện bỏ dở) trong đó có cả những câu mà ở trên tôi vừa trích, và những
câu khác, đại loại:
Tôi nghe tiếng gà trong
cùng tận đau thương
Trong đổ nát tôi vẫn
mang chiến thắng
Dù xé rách những vì sao
xa vắng
Trong đêm dài tôi vẫn
chói vừng dương
Aragon trong chúng tôi
là thế. Có lẽ chính vì những vết thương mà thế kỷ đã để lại trong tâm hồn ông
và cả những vết thương ông gây ra cho chúng tôi - từ chỗ là một con người cuồng
nhiệt, đã có lúc ông trở thành tượng trưng cho một Juda phản bội (người ta cố
nhét vào đầu chúng tôi như vậy), -- mà Aragon càng trở nên gần gũi.
Sau này tôi còn được
biết thêm một vài nhà văn nhà thơ Pháp khác cũng sống trong thế kỷ XX lớn lao
và đau đớn này.
Có người tỉnh táo
hơn, chắc chắn là nhiều người sâu sắc hơn, một số khác trong sáng và thuần nhất
hơn Aragon.
Nhưng đối với riêng tôi,
tác giả Quyển truyện bỏ dở vẫn là nhà văn Pháp thân thiết bậc
nhất. Hơn cả một giá trị tự thân, ông đã trở thành một điểm đối chiếu.
Khi giở các trang bách
khoa toàn thư văn học hoặc các bộ lịch sử văn học Pháp, thường tôi tìm ngay xem
trong cuốn sách ấy người ta viết về Aragon như thế nào, dài hay ngắn và lấy đó
làm thước đo để xác định những chuẩn mực mà tác giả cuốn sách tra cứu ấy theo
đuổi.
Trong sinh hoạt văn học,
đôi khi tôi cũng hùa theo mọi người để tìm tới những nhà văn được coi là mốt,
để khỏi mang tiếng tụt hậu. Nhưng lúc cần suy xét về đường dài, tôi thường chỉ
đọc đi đọc lại những người mà tôi cảm thấy gần gũi, họ ở phía trước của tôi và
có vẻ như cách tôi không xa, nếu cố gắng tôi có thể theo họ, đó cũng là con
đường để tôi tìm ra chính mình.
1997