VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Tô Hoài, người tận tụy đến cùng với những tư tưởng của mình


Mới đấy mà đã sắp được 100 ngày kể từ khi tác gỉả Dế mèn qua đời



 Tadeusz Rozewicz là nhà thơ Ba Lan sinh 1921 qua đời 2014. Có một bài thơ của ông tìm cách cắt nghĩa về người viết văn gợi cho tôi nhiều liên tưởng.

Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ



nhà thơ là người chẳng ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình


nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ


nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa


nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự mình đứng dậy


nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.


Lê Bá Thự dịch

Ở cuối bài thơ có chua rõ thời điểm sáng tác 18-8-2011. Nghĩa là nó được viết vào dịp tác giả chín mươi tuổi.
Tôi đọc và nghĩ đến trường hợp Tô Hoài.

Ngay ngày 6-7-2014, mạng BBC có bài mang tên Nhà văn Tô Hoài từ trần ở tuổi 94, trong đó có đoạn nói khơi khơi khơi rằng nhà văn này  có một cách nhìn chinh thống
Năm 1992, hồi ký Cát Bụi Chân Ai của ông đã gây ồn ào dư luận khi đưa ra chân dung một số nhà văn thuộc hàng 'vai vế'.
Trong hồi ký, ông có nhắc tới Nhân văn Giai phẩm, một chủ đề luôn được coi là nhạy cảm, tuy cách ông đề cập, nhận định vấn đề được đánh giá là chính thống, phù hợp với cái nhìn của giới chức.

 Tôi cho đây là một lời đánh giá không chính xác nếu không nói là không hiểu gì về các nhà văn Hà Nội sau 1945.
Tối sáng lẫn lộn…
Những cách tồn tại khó khăn...
Những bộ mặt thường khi lờ mờ nhòe nhoẹt…
 Chúng tôi đã sống một cuộc đời như thế.
Ai sẽ hiểu cho chúng tôi đây?

Nói cho đầu đuôi thì như thế này:
--Về những cái dở của Tô Hoài, xưa nay người trong giới chúng tôi không lạ. Nếu trong sinh hoạt cá nhân ông  đã nổi tiếng là một ông già thực dụng tham lam càm quắp, một con người rất trần tục, thì về chính trị nhiều khi ông dám làm đủ thứ việc mà chính ông rất khinh bỉ.
Có lần, nhân nói về trường hợp Nguyễn Khải, tôi đã tính thử gọi ra cái căn bệnh phổ biến đó (xem Chất lang chạ trong mỗi chúng ta  trên blog này ngày 18-2-2012 ) Cái chất lang chạ này trong Tô Hoài cũng rất sẵn.

-- Nhưng từ lâu chúng tôi lại cũng biết rằng ông vốn là một nhà văn biết gìn giữ lương tâm nghề nghiệp. Trong ông không phải chỉ luôn luôn có hai con người như Nguyễn Khải, Chế Lan Viên. Mà trong ông còn luôn luôn có một con người chờ đợi thời cơ để trình bày cho được những quan sát riêng suy nghĩ riêng về  các vấn đề lớn nhất của cái cuộc sống xã hội.
Ông không chơi trò xếp hàng hai cửa.
Ông không loanh quanh lấp lửng vừa nói vừa sợ.
Ông cũng không manh động chọc ngoáy liều lĩnh rồi lại co vòi hối hận.
Ông có sự tính toán hợp lý của mình. Thời gian chỉ càng làm tăng thêm độ căng, độ ráo riết trong tư duy ông, khiến ông bền bỉ đi trên con đường đã chọn.

Tôi cho đoạn viết sau đây của mạng Bauxite với Tô Hoài là khá chính xác:
Là nhà văn tham gia cách mạng từ trước Cách mạng tháng Tám, nhiều thập kỷ được rèn giũa kỹ năng viết “định hướng”, được mài xát bằng vô số cuộc chỉnh huấn tư tưởng, nhưng Tô Hoài vẫn không bị cùn mòn trong tư duy nghệ thuật.
 Những năm hòa bình sau Hiệp định Genève, luồng gió tự do tư tưởng của Nhân văn Giai phẩm đã gián tiếp thổi qua tâm trí ông, giúp ông sáng tác được truyện dài Mười năm (1958), để sau đó bị trả giá bằng những bài phê bình gay gắt.
 Sau thời Đổi mới, ông cho ra liên tiếp ba cuốn truyện ký làm chấn động dư luận: Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Ba người khác đưa lại một cách nhìn “phản tỉnh” về những năm tháng cay nghiệt của một miền Bắc thực hiện chuyên chính theo đường lối vô sản, cải cách ruộng đất ở nông thôn và “cải tạo tư tưởng tiểu tư sản” trong hàng ngũ trí thức, nhà văn.
Bút pháp hồi tưởng nửa thực nửa hư, trữ tình xen trào lộng, hiện thực giễu nhại cùng song hành... đã tạo nên trong tâm thế người tiếp nhận một cảm hứng bột khởi, bùng vỡ bức xúc, nhưng không đổ vỡ mà lấy lại được sự thăng bằng. Có thể nói Tô Hoài đã chuộc lại sự thanh thản, thiện lương cho chính mình và cho bạn đọc.
  
    Trong nhiều lần trò chuyện với tôi, Tô Hoài hay nói tới cái ý giá kể không có cách mạng thì chắc nhiều nhà văn khác sẽ đi làm nghề khác. Nguyễn Đình Thi sẽ ra làm quan. Nguyễn Văn Bổng sẽ là giáo sư một trường trung học nào đó. Chỉ riêng ông là thế nào cũng trở thành nhà văn.
   Hiếm hoi lắm, lại có những lần, cũng vẫn về nghề nghiệp, tự nhiên Tô Hoài ngả sang cái giọng ngùi ngùi. Ông nói tới các bậc tiền bối, từ cụ Tản Đà mà chính ông không biết mặt, tới cụ Hồ Biểu Chánh mà ông đã ’”xông” tới găp cái lần vào Dầu Tiếng. Nhiều người khác nữa. Nam có Bắc có. Bên này bên kia. Ông cho người ta cảm tưởng là ông muốn tên tuổi mình được đặt bên các vị đó. 

Tôi biết là trong tâm trí Tô Hoài, ý niệm nhà văn có một nghĩa riêng. Ở đó  có phần chung nhưng cũng có phần xa lạ với cách hiểu của người đương thời, nhờ thế lại gần hơn với cách hiểu của ông cha ta trong quá khứ.

Vậy là cuộc đời ông bao hàm một sự lưỡng phân.
Để miêu tả ông, tôi muốn mượn ý tứ trong bài thơ trên của Tadeusz Rozewwicz để đưa ra một bài thơ cảm đề  hoặc đơn giản là một bản phỏng dịch tùy tiện:

Ông chẳng ưa ràng buộc, nhưng lại là  kẻ tự buộc dây vào mình
Ông  vốn dễ dãi và có lúc cả tin nhưng chẳng chịu tin cái gì đến cùng
Ông tham gia vào sự  lừa dối nhưng lại lặng lẽ bóc trần sự lừa dối
 Bao phen ông gục ngã, nhưng cuối cùng ông vẫn là người đứng thẳng

Ông đã  ra đi, nhưng -- nếu có một vài nhà văn thời này còn lại -- bao giờ người ta vẫn phải kể tên ông.


Đoạn tin trên báo TT&VH sau đây của nhà báo Chiêu Minh chắc ít người để ý, nhưng đối với tôi nó là cái tin ngắn hay nhất có liên quan tới ngày Tô Hoài qua đời:  

Trong những năm cuối đời, viết văn vẫn là cách để Tô Hoài neo mình lại với cuộc sống  xung quanh.
Ở tuổi 90 ấy, ông viết bộ 100 truyện cổ tích cho NXB Kim Đồng với những cái kết rất riêng của mình. Ở đó, Mỵ Châu không chết tức tưởi dưới lưỡi gươm của An Dương Vương.
Cô Tấm cũng không xả thịt Cám để làm mắm, gửi cho dì ghẻ.
Hỏi vì sao viết vậy, [lão VTN xin phép bỏ chữ lão] nhà văn chỉ cười.

Rồi, ông chuyển chủ đề sang cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành nếu điều kiện sức khoẻ cho phép: “Tôi muốn viết về Cách mạng tháng Tám như những gì mình trông thấy. Ở đó không chỉ có khí thế ngút trời của quần chúng mà còn có cả những chuyện dở khóc dở cười của những anh trí thức nghèo đang lúng túng không biết chọn đường nào” (Thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/nha-van-to-hoai-qua-doi-da-di-roi-mot-nguoi-ha-noi-cu n20140707073753506.htm )

Nếu người nào muốn kiểm tra -- xem Tô Hoài định viết về cách mạng như thế thật  hay chỉ là khoe khoang làm phách – xin mời hãy đọc lại tạp chí Tiên phong hai năm 1945-46. Trong bài ký này Tô Hoài kể chuyện người dân vào phá thành Sơn Tây với thói tham lam và bộ mặt nhếch nhác. Ở đoạn ghi chép kia – với tư cách phóng viên chiến tranh— ông ghi nhận rằng gọi là Nam tiến song thực ra các ông đã sống cái cảm giác  ngao du lang bạt đầy chất yêng hùng.

Nhìn vào mấy cuốn sách cuối cùng của Tô Hoài:
--Cát bụi chân ai viết về các sự kiện có liên quan tới những năm tháng tìm đường và những đầu hàng cùng nhẫn nhục chịu đựng của cả một lớp người cầm bút cũ hồi Nhân văn – Giai phẩm
-- Ba người khác viết về Cải cách ruộng đất. Trong cả tháng nay, nhân triển lãm Cải cách ruộng đất, một số trang của Ba người khác được trích ra in lại, cùng với nhật ký Trần Huy Liệu, sổ tay ghi chép của Trần Dần và các trích đoạn trong Đèn cù.

Bây giờ lại cuốn sách về cách mạng. Nếu đã hiểu con người nhất quán trong  Tô Hoài, sau những điều ông vừa nói ra, chắc không khó khăn gì để đoán ra cả những điều ông sẽ viết. Ông cảm được rất sớm cái khoảng trống vừa được mở ra ngày hôm nay. Việc nắm bắt cơ hội ở ông đã thành một thứ năng khiếu

 Tôi thường cũng vẫn dùng những chữ tiếc thương khi đưa đám các nhà văn quen biết. Trong thâm tâm tự biết bên cạnh phần xót xa thực sự của một kẻ “một lứa bên trời lận đận“, không khỏi có phần tôi chỉ hùa theo mọi người, nói những lời sáo. Nhiều bậc đàn anh của tôi, kể cả những người có tài nhất, ra đi khi đã hết lộc. Có người đã ăn lạm vào phần của đám người đi sau. Không sợ mang tiếng tàn nhẫn thì có thể bảo cái phần tinh hoa của họ đã chết khi họ còn sống và bạn bè đồng nghiệp chỉ đang đi sau những cái xác.


Riêng với Tô Hoài thì khác. Ngày ông ra đi, tôi  thầm nhủ với mình một điều xuất phát tự đáy lòng. Tôi tiếc.
أحدث أقدم