VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Thơ Huy Cận và những vẻ đẹp của qúa khứ


      Từ hồi  tuổi mới 20 – 25, Huy Cận đã biết tạo cho thơ mình một vẻ đẹp già dặn.
      Cái tên Lửa thiêng, có lẽ không hẳn đã hợp với các bài thơ trong tập, đơn giản là vì chất thiêng mà Huy Cận gợi nhớ ở đây còn thấp thoáng một vẻ phôi pha trần thế và khó lòng nói là đã  có được sắc thái riêng.
     Mà  phù hợp hơn, khi muốn tìm ra cái phần tinh hoa trong thơ Huy Cận tiền chiến, tôi muốn dùng chữ đẹp xưa, như tên một bài thơ khác của ông.

     Thật vậy, nếu nhớ  tới Xuân Diệu, luôn luôn ta nhớ cái líu ríu cuống quýt mau với chứ vội vàng lên với chứ của ngày hôm nay thì giọng thơ Huy Cận lúc trẻ đã thật khoan thai trầm mặc, nó là tiếng nói của một nhà thơ luôn sống với  một quãng lùi để có thể nhìn mãi tận xa xưa.
     Cũng giống như Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, thơ Huy Cận hồi ấy cho chúng ta biết một khía cạnh đặc biệt làm nên cái điệu tâm hồn Việt Nam. Ngậm ngùi. Chiều xưa. Tràng giang. Nhạc sầu... Những bài thơ đó thuộc về cách nghĩ một thời. Quá khứ hằn lên với những vết mòn. Mờ xa mà thắm thiết. Và xa vắng. Và đìu  hiu. Tôi nghĩ tới cái màu ngói cổ. Tôi nghĩ tới cái cái hoà sắc riêng của những đền chùa Việt Nam, những bức tường rêu phong, những hàng cột không chói lọi sơn son thiếp vàng, mà màu đỏ ở đây như có cái vẻ trĩu xuống đất, lẫn vào chung quanh, nhẫn nại, cam chịu.
    Cũng đã có lần Huy Cận nói tới một vẻ đẹp hoang dại dân dã Đường trong làng hoa dại với mùi rơm -- Tôi cùng người đi dạo giữa đường thơm.
    Nhưng những bài thơ hay nhất của ông thường có cái vẻ sang trọng pha chút quý phái.
     Cố nhiên không bao giờ ta quên rằng hồn thơ ấy chỉ có thể hình thành nhờ ảnh hưởng Tây phương. Dấu vết của thơ Pháp còn trải khắp tập Lửa thiêng ( kiểu như Sớm hôm nay hồn em  như tủ áo --  ý trong veo là lượt xếp từng đôi ).
    Có điều, ở những bài hay nhất trong tập, ta gặp lại cái  vang hưởng Trung Hoa vốn đến với ta từ lâu lắm. Xa rồi khuất ngựa sau non -- Nhỏ  thưa tràng đạc tiếng còn tịch liêu. Tràng đạc là gì ? Có phải là tiếng chuông lắc trên cổ con ngựa ? Sao không nói sông dài mà lại phải gọi Tràng giang ? Không ai định hỏi  và xưa nay tác giả cũng không nói. Cũng như ta không bao giờ thắc mắc về những gió thanh tân , tình vạn lý ,  những đồng trăng lục nhạt vàng thanh lối gần..., chỉ  có cảm tưởng những chữ ấy câu ấy nói hộ một điều  bấy lâu  vẫn sống âm thầm dai dẳng trong mỗi tâm hồn.
    Cái vẻ chín tới này không chỉ có mặt trong Lửa thiêng mà về sau, còn một lần nưã đến với Huy Cận. Những năm sáu mươi của thế kỷ XX  không chỉ là một giai đoạn thanh bình hiếm có đến với đất nước sau cuộc kháng chiến chống Pháp, mà còn đánh dấu một bước phục hưng  thực sự trong đời sống thơ ở Hà Nội. Nó không đi tìm những cái mới lạ. Mà  nó quay về với cái lãng mạn và bằng  sự hồn nhiên của mình, đạt tới một trình độ cổ điển mới.
      Chế Lan Viên có Ánh  sáng và phù sa với cái phần e ấp chờ đợi hồi hộp khát khao ít thấy ; Ánh  sáng và phù sa  theo tôi là cái phần hay nhất trong sáng tác của họ Chế.
      Rồi Tế Hanh có Gửi miền Bắc không dễ dãi như tác giả này vốn có;  Xuân Diệu có Cầm tay, chùm thơ tình, mà chất lượng hoàn toàn  có thể đọ với Thơ thơ ngày xưa.
      Và Huy Cận có Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời … Nếu đối diện với  những bài hay nhất rút ra từ ba tập này, chúng ta sẽ thấy lại cái vẻ chín, đầy đặn, chắc chắn của thơ ông. 
      Thu tới ngoài kia
      Nghe nhân thơm trong trái nặng
      Nghe nhựa ấm trong cành thưa
      Nghe run rẩy tiếng gió ru lúa chín
     Xôn xao cuống lá rụng thay mùa.
       Sinh thời, nói chuyện với tôi,  Nguyễn Minh Châu tỏ ý rất chịu bài Chín  với mấy câu mở đầu như vậy.
      Còn đám học trò cấp ba chúng tôi hồi trước chiến tranh thì mê đủ thứ, cả  cái vẻ lộng lẫy như trong một bức sơn mài toát lên từ sự hài hoà của trời đất trong Đoàn thuyền đánh cá,  lẫn cái đạm bạc như một bức tranh thuỷ mạc của Mưa xuân trên biển ( mà một câu trong đó là Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm ).
      Thơ ông thường như thứ đồ gốm mộc mạc trong bàn tay anh thợ:
        Xoay xoay bàn gỗ ơi
       Đất mịn nhào nắng tươi
       Anh làm thêm cái đẹp
      Chưa có ở trong đời  
      Song lại có lúc vươn lên cả cái kỳ vĩ cái bất ngờ của những công trình văn hóa vượt thời gian và không gian ( Trò chuyện với Kim Tự tháp ),  để rồi sau đó có những lúc dừng lại chia sẻ nỗi bồn chồn giữa đời và mộng (Xem tranh Tề Bạch Thạch ).
       Quá mê các bậc đàn anh tới mức chịu đi sau làm cái bóng của họ là lỗi của một lớp người trẻ tuổi, song quả thực, có dễ gì vượt được một chuỗi tài năng cùng lúc toả sáng như vậy.
       Họ đã có lúc chín trong hoàn cảnh của họ, còn chúng tôi phải chăng cái sự sống sít, dang dở  theo mãi như một nghiệp chướng ? …   
       Một bạn Việt kiều, cũng quê Hà Tĩnh như Huy Cận, sau mười lần về nước, gần đây có nhận xét rằng người Hà Nội  có vẻ quá “chúi mũi “ vào thưởng thức văn chương, tự ru ngủ trong những câu thơ vần vèo thánh thót  mà coi nhẹ tư tưởng bộc lộ qua trang viết.
      Lúc tỉnh táo và thử làm khác mình đi, tôi cũng muốn nghĩ thế.  Nhưng biết làm thế nào! Cũng như nhiều thế hệ đàn anh, người thanh niên Việt nửa sau thế kỷ XX vào đời không có âm nhạc cổ điển, không có hội họa hiện đại. Chỉ còn có thơ  mỗi khi muốn nghĩ về một thế giới khác.
      Thơ, với chúng tôi, là sự có mặt trong đời, là hy vọng, là cái sự  hồn nhiên được gặp gỡ với  bao nhiêu tâm hồn xa lạ, nhưng trước hết  là những dịp được trở về với quá khứ ông cha.
      Một thứ đêm đêm rì rầm trong tiếng đât – Những buổi ngày xưa vọng nói về ( thơ Nguyễn Đình Thi).
       Như với Huy Cận mà hôm nay ra đi.
       Chỉ vừa nghe tin ngày 19-2  ông đã vĩnh viễn nằm xuống là tâm trí đã xôn xao bởi bắt gặp những cảm giác tốt lành nhất cùng rung lên trong lòng.
       Không còn những chuyện tầm thường thô lỗ của đời sống hàng ngày nơi một quan chức cỡ thứ trưởng bộ trưởng mà bọn tôi vẫn biết, không còn bao nhiêu trơ lỳ,  già cỗi, thóai  hoá, nó làm nhòe nhạt hình ảnh ông,  gạt ông khỏi tâm trí những người cùng sống một thời.
      Mà chỉ còn  những câu thơ hay nhất  tác giả từng viết, những câu thơ thời trẻ bọn tôi đã thuộc, lục tục kéo tới gom người ta lại.
      Ấn tượng sau cùng về tác giả Lửa thiêng là thế, thơ Huy Cận đã thuộc về một phần tài sản tinh thần của cả mấy thế hệ hôm nay. Nó kể với chúng ta rằng có một thời người Việt đã sống rất hài hòa rất trong sáng. Đã làm nên những bài thơ chín đẹp rất trí tuệ. Chứ đâu có như hôm nay.

In trên TTVH ngày Huy Cận qua đời, 19-2-2005 ,
  bổ sung 2-3-2013
أحدث أقدم