Nguyễn Tuân là người
làm gì cũng có một sự dụng công và chăm chú khác thường. Mỗi khi cần nói về cái
đẹp, ông lại càng tỏ ra trịnh trọng, như đang phải làm một công việc thiêng
liêng.
Ông đã bàn tới cái đẹp trong mọi hoàn cảnh có thể. Khi phác hoạ một bức
tranh thiên nhiên; khi bàn về nghệ thuật; khi bắt gặp một kiểu nhân vật, một
con người, một hình dáng, một cách cư xử.
Hồi viết Vang bóng một thời,
ngay trong những đoạn miêu tả một vài hành động thông thường như việc người này
uống trà, người kia làm một cái đèn cho con chơi, thậm chí tả một đám cướp dở,
ôn lại ít ngón nghề trước khi vào việc, ông cũng mỹ lệ hoá hành động của chúng,
làm cho những hành động ấy hiện ra hấp dẫn kỳ lạ, như là do các nghệ sĩ thực
hiện.
Có vẻ như nếu trên đời này, có một ngôi đền dành để phụng thờ cái đẹp,
thì Nguyễn Tuân chính là viên tư tế chuyên lo công việc đèn nhang cho người đến
lễ.
Rung cảm trước cái đẹp là dấu hiệu phải có ở một con người lịch lãm thạo
đời.
Hiểu biết về cái đẹp là niềm kiêu hãnh duy nhất mà người tài tử thèm muốn.
Và mỗi giây phút bắt gặp cái đẹp là một đặc ân, một phút xuất thần của con
người. Nhiều trang sách của Nguyễn Tuân trước 1945 được viết để nói với bạn đọc
cái điều tâm huyết ấy.
Từ sau 1945, trong hoàn cảnh đầy biến động của hai cuộc
kháng chiến nối tiếp, nhà văn này vẫn tìm đủ mọi cách để nhắc tới vẻ đẹp. Hoặc
ông tố cáo tội ác của những kẻ huỷ hoại thẩm mỹ, huỷ hoại nghệ thuật (như ở bài
Xoè in trong Sông Đà). Hoặc ông lưu ý rằng chúng ta phải tạm thời
hy sinh cái niềm vui hưởng thụ ấy đi để làm những việc cần kíp (“ Trời hãy đừng đẹp
nữa” - một câu trong bài Giữa hai xuân). Và về sau thì ông lại để
công săn tìm những vẻ đẹp mới mà trong thực tế hôm nay mới xuất hiện.
Những vẻ đẹp chỉ đến Nguyễn Tuân mới thấy
Cái đẹp vốn đa dạng
như cuộc sống. Tuy nhiên, người đời vẫn gặp nhau ở một cách hiểu chung về nó,
đại khái, trong cái vẻ đẹp phải có những nét hài hoà, mới và trẻ thì dễ đẹp; và
theo truyền thống phương Đông, cái đẹp phải đi đôi với cái thiện.
Nhưng đó là
cách hiểu thông thường!
Một người đến với văn chương độc đáo như Nguyễn Tuân
không thể bằng lòng với cách hiểu đó mà phải đưa ra bằng được những quan niệm
riêng.
Ngay từ 1944, nhà phê bình tờ Tri Tân là Kiều Thanh Quế đã nhận
xét: “Văn Nguyễn Tuân khi dí dỏm như cô gái làm nũng, khi lại đỏng đảnh như
người đàn bà khó chiều”. Cái sự đỏng đảnh tai ngược mà Kiều Thanh Quế nói ở
đây, cũng có thể dùng để nói về quan niệm thẩm mỹ của Nguyễn Tuân.
Ông hay nói
tới những vẻ đẹp già dặn.
Trong văn của ông, người đàn bà đẹp thường là những
người đứng tuổi, thạo đời, giỏi ngón ăn chơi, song lại có học, nhiều khi chơi
chua và hay nói phũ, để rồi biết dừng lại đúng lúc, và tạo nên sự quyến rũ của
riêng mình.
Rộng ra mà nói, cái đẹp của Nguyễn Tuân thường có khuôn mặt của cái
lạ, cái khác thường, nói chung đó là những cái đậm, gắt mà người đời cho là ra
ngoài khuôn khổ. Sự đa dạng của vẻ đẹp mà ông đưa ra có thể thấy ngay ở những
từ xác định mức độ, sắc thái của cái đẹp được miêu tả.
Ngược với cái đẹp hiền
hậu kiểu Thuý Vân (mà tác giả gọi là một vẻ đẹp “vững chãi và ngu dại”,
ông thích cái đẹp sắc sảo của Thuý Kiều (Một lần đi thăm nhau).
Đi xa hơn, ông nói tới cả cái đẹp tả tơi, cái đẹp hỗn độn (Chuyến xe tình),
cái đẹp đột ngột (Đôi tri kỷ gượng).
Trong những thiên truyện được gọi
chung là yêu ngôn, Nguyễn Tuân lại hay tả lại sự ám ảnh của những vẻ đẹp oan
nghiệt, cái đẹp rờn rợn, khiến cho người ta vừa thích vừa sợ (như vẻ đẹp của
nhân vật cô gái bán giấy bút trong truyện Khoa thi cuối cùng).
Cái đẹp
qua cách miêu tả của ngòi bút Nguyễn Tuân như vậy trở nên thoắt ẩn, thoắt hiện,
biên giới của nó như mở rộng hơn, và hồn cốt của nó sẵn sàng nhập vào cả những
sự vật mà trước kia người ta ít ngờ tới.
Từ những mảnh vỡ khác nhau
Cùng với Thạch Lam,
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiền chiến tự đặt cho mình là phát hiện
bằng được cái đẹp vốn tản mát trong đời sống. Thế nhưng sau chỗ xuất phát chung
ấy thì hai người lại đi theo hai con đường hoàn toàn khác nhau.
Nếu cái đẹp ở Thạch
Lam mang sắc thái thuần hậu, thì đến Nguyễn Tuân nó đi gần tới sự bất cần đời,
ngạo nghễ, phá cách (“ Một thằng ăn
cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn rất nhanh”
- Chuyến xe tình).
Sự xuất hiện một quan niệm cực đoan như thế trước
tiên do sự phát triển nội tại của văn học.
Từ những năm 30, đời sống tinh thần
ở xứ sở có sự biến chuyển nhanh chóng, từ “xanh” đến “chín”, từ đơn sơ học lỏm
đến lúc có tất cả cái rắc rối phức tạp mà một nền văn hoá làm theo mẫu hình
phương Tây thường có.
Thêm vào đấy phải tính tới môi trường lớn mà văn hoá Việt
Nam
lúc đó phụ thuộc.
Nhìn lại văn chương những năm trước sau 1940, người ta không
khỏi nhận ra những mảnh vỡ trong mỹ học của các trường phái suy đồi, siêu thực
(nói chung là có màu sắc duy mỹ) - những trường phái này phát triển ở Pháp từ
đầu thế kỷ XX, và theo sách báo in ra đều đều mà thấm dần vào xã hội Việt Nam.
Trên cơ sở một quan niệm hiện đại về quyền tự do của con người, nếu Nguyễn Tuân
cùng với một số văn nghệ sĩ khác có tiếp nhận chúng một cách dễ dàng thì cũng
không phải là một điều khó hiểu!
Cố nhiên, trong hoàn cảnh riêng của xã hội
Việt Nam
lúc ấy, những quan niệm hiện đại kia không được nhập cảng một cách trọn vẹn.
Các nhà văn nhà thơ vốn có một nền học vấn vững chãi như Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng
Chương, hoặc bên hội hoạ như Nguyễn Đỗ Cung v.v... thường không quên đưa vào
đây những yếu tố duy mỹ trong nghệ thuật phương Đông (Lão Tử, Trang Tử hoặc
chất huyền hoặc trong Liêu Trai), mặt khác, tiếp nhận tinh thần phá cách trong
văn hoá dân gian Việt Nam để làm nên những cốt cách riêng. Ở phương diện này, Nguyễn
Tuân trong thời tiền chiến là một trong những người đi xa nhất.
Theo sự quy định của thời đại
Từ sau 1945 tuy vẫn để
tâm săn tìm cái đẹp, song ngòi bút của Nguyễn Tuân lại được hướng dẫn bởi một
mỹ cảm khác hẳn.
Nếu hôm qua, ông hướng về cái đẹp theo cái cách lạnh lùng
khinh bạc và nghiêng về phân tích nội tâm thì hôm nay, ông ngả sang bao quát
ngoại giới. Có dịp đi nhiều biết rộng, ông thích thú khi nói tới cái đẹp bao la
lộng lẫy (và đôi khi hung dữ nữa) của rừng và biển.
Nếu hôm qua, ông cảm nhận một
cách sâu sắc sự oái oăm “cái gì đẹp quá thì chóng tàn”, “cái gì đẹp
quá thì ít khi được là thực”, thì ngày nay, cái đẹp ấy không yểu mệnh nữa
mà trở nên chắc thiệt, lành mạnh.
Để xác định vẻ đẹp tiêu biểu cho ngày hôm
nay, có lần Nguyễn Tuân đã đặt hẳn bên cạnh nó mấy chữ mà có lẽ trước kia ông
không ngờ tới: đẹp, bây giờ phải đồng thời lành, tốt, bổ (bài Cửa
Tùng).
Tại sao lại có sự chuyển biến kỳ lạ như vậy?
Người ta chỉ có thể
hiểu được điều đó khi đặt hai giai đoạn phát triển trong mỹ cảm của Nguyễn Tuân
vào hai giai đoạn lịch sử mà ông đã sống.
Thời đại cũ yêu cầu độc đáo thì ông
độc đáo đến ngoa ngoắt, thời đại nay yêu cầu sự có ích, thì ông thông thoáng
hơn bao giờ hết.
Và nếu trước kia, ông viết chỉ để dành cho một thiểu số bạn
đọc gần gũi với ông, thậm chí người nghe thì thích song không hẳn đồng tình với
ông thì ngày nay ông thuộc về một lớp độc giả đông đảo hơn hẳn. Mỗi thời ông
lại phát biểu tư tưởng thời đại theo một cách riêng, và đó là điều tạo nên cho
văn chương ông sự hấp dẫn.
Viết
nhân dịp 90 năm sinh Nguyễn Tuân, tháng 7-2000
Đã
in trong Chuyện cũ văn chương 2001