Phan Khôi qua một số công trình nghiên cứu văn học
thời tiền chiến và
ở Sài Gòn trước 1975
Để
hiểu thêm về con người Phan Khôi và những ảnh hưởng của ông đối với đời sống
văn học thời tiền chiến, người viết bài này đã tìm đọc lại:
1.
Bài viết về Phan Khôi, in trong tập Những sáng văn hay, ký tên Tr.Th.
(sách do nhà Nam Ký in ra ở Hà Nội, 1933)
2.
Bài của Thiếu Sơn trong Phê bình và cảo luận, cũng in ra 1933. Dưới đây
gọi là Thiếu Sơn I
3.
Bài của Lưu Trọng Lư, in trong Tao Đàn số 4, 16-4-1939
4.
Bài của Vũ Ngọc Phan, in trong Nhà văn hiện đại, 1942.
Ngoài
ra còn tham khảo:
5.
Phần viết về Phan Khôi trong Phê bình văn học thế hệ 1932 của Thanh Lãng
in ra ở Sài gòn 1973.
6.
Phần viết về Phan Khôi trong Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên, của Phạm Thế Ngũ, in ở Sài Gòn, 1965.
7.
Một bài nữa của Thiếu Sơn, cũng viết về Phan Khôi, in trong Những văn nhân
chính khách một thời, in ra ở Hà Nội 1993. Dưới đây gọi tắt làThiếu Sơn II.
I.
Về sự nổi tiếng và vị trí của Phan Khôi trên văn đàn
Tên
tuổi Phan Khôi gắn với nhiều tờ báo, trong đó có Phụ nữ tân văn. Trong hồi ức của mình, một ký giả
đương thời cho biết: hầu hết độc giả bỏ 15 xu ra mua PNTV đều chỉ muốn được coi
bài của Phan Khôi hay Chương Dân (một bút hiệu của ông).
"Hồi
đó, vào khoảng 1930, một bài văn được trả 5 đồng nhuận bút là hậu lắm rồi. Vậy
mà PNTV dám trả 25 đồng một bài cho ông Phan. Một tháng bốn bài 100 đồng tức là
hơn lương công chức ngạch cao cấp ở huyện, phủ". (Thiếu Sơn II)
Nói
chung, nhiều người xem Phan Khôi là học giả chung của cả nuớc, cỡ như Phạm
Quỳnh, Lê Dư, Trần Trọng Kim (Những áng
văn hay)
Nhiều
người còn nhớ ông từng mở cả mục Vai ngự sử trên đàn văn để chuyên đàn
hạch những "phốt" văn thấy trên các sách báo (nguồn gốc của các mục
Đãi sạn, Nhặt cỏ trên các báo Phong hoá, Ngày nay về sau).
"Phan Khôi mà đóng vai ngự sử đàn văn thì thật là xứng đáng"."Trong
văn giới Việt Nam, dù thuộc về phái già hay phái trẻ, tuy có nhiều người không
đồng ý kiến với Phan Khôi, song ai ai cũng phải công nhận ông là một tay kiện
tướng." (Vũ Ngọc Phan).
II.
Về kiểu loại trí thức hay là sự phối hợp kỳ lạ giữa Nho học và Tây học ở một
người cầm bút nửa đầu thế kỷ XX
Về
đường khoa cử, Phan Khôi đã đỗ tú tài từ năm 18 tuổi (1905). Nhiều người cho
rằng giá ông chuyên tâm theo đuổi thì cũng có thể đậu cử nhân, tiến sĩ như ai.
Nhưng thời thế đã thay đổi, và từ trước khi Nhà nước bảo trợ cũng triều đình Huế ra lệnh bỏ các kỳ thi chữ Hán,
ông đã cảm thấy cần phải quay sang văn hóa Pháp, lo tiếp thu cho được cái tinh
thần thực tiễn trong cái môn học của Tây phương.
Trên
Hà Nội báo, số ra 11-3-1936, Phan Thị Nga kể: sau khi đã đỗ tú tài, ông
không ngại rằng tuổi lớn, vẫn cắp sách đi học chữ Pháp với bọn trẻ con chưa đầy
10 tuổi.
Về
sau, khoảng từ 1911-1913 bị đi tù, ông lại đưa sách vào học, chỗ nào không biết
lấy từ điển ra tra. Tự học mà ông đủ sức đọc cả các sách triết học. Và điều
quan trọng là cái tinh thần tự học này, ông duy trì được gần như trong suốt
cuộc đời cầm bút.
"Kể
trong bạn đồng thời với ông, hình như có ông
là đổi mới rất mau, mà mới hẳn. Trong cửa Khổng sân Trình vừa bước ra,
ông đã dung nạp được phương pháp khoa học" (Những áng văn hay)
"Ông
là một nhà Hán học có nhiều sở đắc về Tây học, nên từ cái đầu đề ông chọn, cho
đến cách lập luận của ông trong các bài đều mới mẻ và khúc chiết, rõ ra người
có tư tưởng mới và am hiểu luận lý Tây phương " (Vũ Ngọc Phan).
Cốt
cách trí thức của Phan Khôi chủ yếu bộc lộ ở chỗ không chịu một chiều tin theo
những cái đã thành giáo điều công thức:
"Ông
không a dua theo thời thượng, mà chống công thức gắt gao. Những gì ông nói ra,
viết ra, đều do ông suy nghĩ theo đầu óc của ông. Mà đầu óc ông như ta đã biết
là một thứ đầu óc thông minh, phong phú, chịu suy nghĩ, độc lập, bướng bỉnh nên
nó khác với mọi người." (Thiếu Sơn II).
"Đối
với ông, không phải chỉ nho học là dở, mà mọi giá trị truyền thống người ta
thường tôn thờ sơn phết khi ấy, đều đáng đem ra đả kích hết. Bài ông châm biếm Cái
cười của con rồng cháu tiên trong PNTV đã làm cho Tản Đà phải chau mày
nghiến răng. Cái sự nghiệp quốc học mà Lê Dư nâng niu xây dựng, ông giáng cho
ba búa là hầu như sụp đổ tan tành". (Phạm Thế Ngũ).
Có
điều, không thể nói Phan Khôi đã phụ bạc một cách tàn nhẫn Nho học để đi theo Tây
học. Ngược lại cả hai kết hợp nơi ông nhuần nhị và trong con mắt lớp người đi
sau, ông "vẫn là một nhà nho đặc sệt" (Lưu Trọng Lư).
III.
Về cốt cách con người và bút pháp văn chương
Nhiều
người gặp nhau trong nhận định: “Tất cả cái gì ở Phan Khôi cũng đều khác
thường" (Thanh Lãng) "Ông là người có cái tính khắc khổ, nhất nhất
cái gì cũng phải hai năm là mười mới chịu" (Thiếu Sơn I) ."Mở miệng
là rầy la, cầm bút là chỉ trích", Phan Khôi nhiều khi đi tới chỗ "bất
cận nhân tình" (chữ của Bùi Thế Mỹ, Thiếu Sơn ghi lại). Ông dùng một thứ
văn "xoay sang cái hướng suôn đuột, tự nhiên tự tại, chẳng cần trang sức,
mà đôi khi lại điểm vào một ngữ điệu đặc Tây" để "phỉ báng tất cả,
phủ nhận tất cả" (Phạm Thế Ngũ)
Tuy
nhiên, nhiều người vẫn phải nhận rằng đây là một văn tài. "Tôi đã nghiệm
những khi nói chuyện về thơ trên các báo, cái lối văn của Phan Khôi có một sức
cám dỗ lạ thường" (Vũ Ngọc Phan). "Văn chương ấy là thứ văn chương
của lòng chân thành, một tấm lòng không biết che đậy. Lời nói ấy được người ta
hiểu và cảm ngay, chỉ vì lời nói ấy chính là sự minh bạch" (L.Trọng Lư)
Một đóng góp của ông mà các nhà văn học sử phải ghi nhận, đó là góp công truyền
bá và luyện tập câu văn quốc ngữ "Ông là một trong số mấy nhà văn lịch
duyệt Bắc Nam, thông thạo cách nói trong khắp ba kỳ đem tiếng miềng nọ không có
phổ biến vào miền kia" (Phạm Thế Ngũ) "hình như Phan Khôi không muốn
người ta xếp ông vào một biên thuỳ nào, là Trung ông không chịu, là Nam không
không ưng, là Bắc ông cũng chẳng thích: có lẽ ông chỉ muốn người ta gọi ông là
người Việt Nam" (Thanh Lãng).
Phan Khôi ngòi bút hiếu sự
Trong
các tài liệu nghiên cứu văn học Phan Khôi (20-8-1887--16-1-1959) không bao giờ
được coi như một nhà thơ thực thụ và lại càng không có vai vế gì trong nền thơ
Việt Nam hiện đại.
Dù
vậy, mỗi khi nói đến phong trào Thơ mới người ta vẫn phải nhắc tới ông với bài
thơ Tình già, in ra năm 1932.
Lạ
một nỗi là chính Phan Khôi cũng không hề có ảo tưởng gì về mình khi làm cái
việc công bố bài thơ này. Ông nói về sự mở đường của mình như một bước nhảy
liều qua quãng đường bí. "Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ
ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới, mà miếng đất tôi
kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra trình chánh giữa làng
thơ (...). Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa, nhưng
tôi tin rằng sau này sẽ có người làm như tôi mà thành công" (Phụ nữ tân
văn 10-3-1932).
Những chi tiết này không chỉ giúp ta hình dung
ra vai trò của ông trong đời sống tinh thần đương thời, mà đồng thời còn để
nhận biết con người ông, cách tồn tại của ông trong văn học.
Đó là một con người độc đáo, đôi khi đến mức
gàn quải. Trong khi muốn bứt ra khỏi mọi lối mòn, muốn tự mình khác đi và giúp
cho chung quanh khác đi, con người đó cũng không thoát khỏi những hạn chế của
thời đại, của hoàn cảnh xuất thân và cả những ràng buộc do chính bản thân ông
gây ra cho ông.
Sự
tồn tại của ông là bao gồm cả thành công và thất bại, dở và hay, mở đường và đứt gãy.
Người can dự
Các
nhà nghiên cứu lịch sử - văn hoá thường gọi giai đoạn từ đầu thế kỷ cho tới
1945 ở ta là một giai đoạn chuyển mình so với một ngàn năm lịch sử trước đó.
Người ta chợt nhận ra ngoài mình còn có cả một thế giới rộng lớn. Nhiều việc
không thể làm như cũ. Mọi chuyện phải được quan niệm lại. Ta đang ở vào khoảng
vị trí nào trong công cuộc tiến hoá? Những ưu thế của chúng ta ra sao, và đâu
là chỗ bất cập, là chỗ kém cỏi? Nên làm thế nào để có thể đua tranh với các dân
tộc khác trên thế giới? Hàng trăm câu hỏi đặt ra, buộc mọi người, trước tiên là
các trí thức, phải xúm lại bàn bạc.
Chính
là đặt trên cái nền của những thay đổi này mà các nhà nghiên cứu lịch sử nhận
ra bóng dáng của một người như Phan Khôi: Ông can dự vào quá nhiều những vụ
việc quan trọng nổi cộm lên trên dư luận. Bên cạnh sự kiện "trình
chánh" bài Tình già có liên quan đến phong trào Thơ mới, ông còn
thu hút sự chú ý qua cuộc trao đổi về cuốn Nho giáo của Trần Trọng Kim,
qua cuộc tranh luận về Quốc học với Lê Dư, Phạm Quỳnh, Nguyễn Trọng Thuật, rổi
qua cuộc tranh luận về duy tâm và duy vật với Hải Triều v.v.
Trong
10 vụ án văn chương, mà nhà nghiên cứu cũ ở Sài Gòn là Thạnh Lãng liệt kê ra
khi tổng kết Phê bình văn học 1932-45,
thì Phan Khôi đã liên quan có tới 5 vụ.
Có
khi ông là người khởi xướng.
Có
khi ông chỉ là một thành viên tham gia tranh luận.
Sự
nhạy cảm đôi khi đẩy ông đi quá đà.
Cách
nói của ông thường gây khó chịu. Kết luận cuối cùng không phải bao giờ cũng
thuộc về ông.
Song
sự đóng góp của Phan Khôi không ai có thể phủ nhận, mà trước tiên là với sự
tham gia của ông, một số cuộc tranh luận mới có tầm vóc xứng đáng theo nghĩa hiện đại.
Trên
phương diện hiểu thấu xã hội và đề xuất vấn đề, những can dự liên tiếp này của
Phan Khôi đánh dấu sự có mặt của một lớp trí thức độc đáo của xã hội Việt Nam
nửa đầu thế kỷ XX - những trí thức xuất thân từ Nho học, nhưng do sự xô đẩy của
hoàn cảnh, lại tiếp nhận được cả Tây học, và muốn vận dụng cả hai thứ hiểu biết
đó, để giải quyết các vấn đề xã hội ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Ngòi bút tung hoành trên trường báo chí
Nếu
như sự sáng tác văn chương đã có từ nước Việt Nam trung cổ, thì chỉ từ thế kỷ
XX (hoặc tính rộng ra, lùi về trước đó ít năm), trên con đường hiện đại hoá, ở
xã hội ta mới bắt đầu có các hoạt động báo chí.
Đứng về phương diện tiến hoá xã hội mà xét,
loại phương tiện truyền thông đại chúng mới được du nhập này quả là một công cụ
hữu hiệu, nó giúp ích nhiều cho sự vận động của xã hội.
Không
phải ngẫu nhiên, những tri thức quan trọng của đất nước - nửa đầu thế kỷ, từ
Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, qua Hải Triều,
Trần Huy Liệu, rồi Nhất Linh, Khái Hưng trong đời đều có làm báo và lấy báo làm
nơi thể nghiệm những điều suy nghĩ cùng là những đề nghị của mình trước quốc
dân đồng bào.
Về
phần mình, Phan Khôi cũng sống trong báo chí một cách tự nhiên, như con cá sống
trong nước. Đây không phải loại nhà báo
lấy tin, phản ánh sự việc đúng theo nghĩa đen của hai chữ ký giả
mà đây là loại nhà báo chuyên thăm dò vào những vấn đề vừa nảy sinh trong xã
hội, để khái quát và bình luận.
Nhiều
người đương thời đã cùng lúc nhận ra một đặc điểm của ngòi bút ông, đúng hơn là
của con người ông: Nhạy cảm và bộc trực.
Lấy
một ví dụ. Cuộc đấu tranh để từ bỏ những ràng buộc cổ hủ đối với phụ nữ là một
vấn đề lớn của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ. Nhất Linh và Khái Hưng làm công
việc này bằng cách viết các tiểu thuyết Đoạn tuyệt 1935, Nửa chừng
xuân - 1934 (còn Nguyễn Công Hoan thì tranh luận lại bằng tiểu thuyết Cô
giáo Minh) .
Phan
Khôi chỉ có phương tiện duy nhất là tờ báo, nhưng chính là các bài báo vài ngàn chữ của ông đã rải rác ra
đời từ sớm hơn các tiểu thuyết, chẳng hạn bài Tống Nho với phụ nữ in ra từ 13-8-1931, bài Một cái hại
của chế độ đại gia đình: bà già với nàng dâu in ra 20-8-1931. Hai bài này
(nhất là bài thứ nhất) đã khiến cho một nhà thơ nổi tiếng đương thời như Tản Đà
hết sức bất bình. Ông viết rằng như vậy là Phan Khôi "loạn ngôn hoặc
chúng" và làm "bại hoại phong hoá". Ngày nay, bình tĩnh đọc lại,
người ta nhận thấy Phan Khôi tuy xuất thân từ cựu học nhưng có tư tưởng khá
mới, và trong một số việc, ông còn đi trước cả Tự lực văn đoàn. Và đã mấy ai
biết như ông, tận dụng được phương diện báo chí để "dũi" vào những
vấn đề nhạy cảm đến như vậy?
Phong cách độc đáo. Số phận độc đáo
Nét
nổi bật trong phong cách viết báo của Phan Khôi là lối viết rõ ràng, mạch lạc.
Giữa
những người cầm bút hồi đầu thế kỷ vốn trọng từ chương, thích hoa mỹ, kiểu
cách, ông thường tự trình diện như một ngòi bút suôn đuột, nghĩ sao nói vậy.
Có
lần ông đã nêu lên cái chuẩn mực cho sự viết của mình.”Chữ phải viết đúng, đừng
để cho kẻ khác có thể hiểu lầm, văn phải viết cho thật đâu ra đó, như cái tờ
giao kèo hay lời quan toà biện án, đào đất mà chôn cái dọng văn hoa cử ngày xưa
đi cho tuyệt."
Một quan niệm như thế, có vẻ xa lạ với cách
hiểu thông thường. Song có lẽ chính vì vậy, những gì Phan Khôi viết ra, luôn
luôn độc đáo. Vả chăng, cái mà người ta chờ đợi ở một tác phẩm văn chương là
cái phần tâm huyết của ngòi bút, cái đó ở Phan Khôi bao giờ cũng sẵn.
Dù
chỉ viết những bài báo ngắn, ông cũng thường mang vào đấy mọi lịch lãm từng
trải cùng những yêu ghét sâu nặng của mình.
Mỗi bài viết đã thật sự nảy sinh như một nhu
cầu của chính bản thân người viết, và những độc đáo trong cách nói cách trình
bày mà ai cũng thấy, chẳng qua chỉ là những biểu hiện cụ thể những độc đáo
trong cách nghĩ, cách sống của tác giả.
Có điều, trong hoàn cảnh của xã hội Việt Nam giàu chất Á Đông bất cứ cái gì bị đẩy tới cực đoan rồi
cũng trở thành xa lạ. Ngay từ trước 1945, ngòi bút Phan Khôi đã trải qua đủ
thăng trầm và bên cạnh sự kính trọng, ông đã tự chuốc lấy nhiều ác ảm đến nỗi
trong con mắt của một ít người đương thời, có lúc ông đã bị coi như bất cận
nhân tình, như kẻ phá hoại. Từ sau 1945, trong một hoàn cảnh xã hội đã khác đi
về căn bản, cách nghĩ cách sống cực đoan cũng sẽ là nguồn gốc của những thăng
trầm sẽ đến với ông, dựng tạo nên chung quanh thân thế ông những bi kịch.
Đã in trong Cánh
bướm và đóa hướng dương --1999