Tôi xin hết lòng (truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan ) kể về một người đàn bà, thức nhiều đêm ròng để trông một cô gái ốm và lúc nào cũng xoen xoét cái miệng tôi xin hết lòng vì cô. Có gì đâu chỉ vì bà ta quá mê bộ tóc của cô bé. Sự việc lộ tẩy khi, lấy cớ giúp cho cái đầu cô bé khỏi vướng víu, trong lúc trông nom cô, bà ta đã đang tay cắt trộm mái tóc ấy.
Một cái ý ngầm toát lên qua thiên truyện: hoá ra ở đời này chẳng có ai tốt với ai cả !
nói bóng nói gió, nói càn, nói cạnh nói khoé, nói chọc, nói chơi, nói chua, nói cứng, nói dựa, nói dóc, nói dối, nói điêu, nói gạt, nói gần nói xa, nói gở,
nói hớt, nói khoác, nói lảng, nói láo, nói leo, nói lửng, nói mát, nói mép, nói móc, nói mỉa, nói ngoa, nói ngang, nói nhăng nói cuội, nói như thánh phán, nói như vẹt, nói phách,
Một cái ý ngầm toát lên qua thiên truyện: hoá ra ở đời này chẳng có ai tốt với ai cả !
Nhưng đọcTôi xin hết lòng, giữa những ngày xã hội băng hoại, tôi muốn lưu ý một khía cạnh khác: trong trường hợp này, lời nói đã trở thành công cụ cho người ta thực hiện ý đồ xấu xa. Nó trở nên hàm hồ, tuỳ tiện, lăng nhăng, giả dối, một thứ sản phẩm của tình trạng“ lưỡi không xương nhiều đường lắt léo “ như các cụ xưa vẫn nói.
Ý nghĩ này thường trở lại trong đầu tôi khi hàng ngày chứng kiến cảnh người ta lừa nhau ở vác bến xe bến tàu. Thử đứng ở đầu cầu Chương Dương Hà Nội chẳng hạn. Những chiếc xe khách chở người các vùng quê về chưa kịp đỗ đã có hàng loạt xe ôm chờ sẵn. Mỗi hành khách xuống xe lập tức trở thành con mồi để đám xe ôm xô đến tỏ thiện ý muốn giúp đỡ. Lời nói bao giờ cũng ngọt xớt. Người ngoài nghe thấy mà rùng mình, sự thực là họ đang lừa nhau để bên này bùi tai thì bên kia “chém”. Đại khái cũng giống như các chương trình khuyến mãi của các công ty bất chính quảng cáo trên ti-vi. Họ lấy ngay tiền người mua hàng để làm phần thưởng. Mỡ nó rán nó. Của người phúc ta. Nói ra rả hàng ngày mà không ai thấy chướng.
Có cái ác là nhiều khi biết người ta nói dối đấy mà không sao vạch mặt ra được. Chẳng hạn nhiều khi có việc cần đến một cơ quan thì thấy đập vào mắt tấm bảng viết nguệch ngoạc “ Cơ quan chúng tôi xin được phép nghỉ sáng nay để họp “. Cùng là cán bộ nhà nước cả, nên tôi cũng chẳng giận làm gì, mặc dầu biết tỏng là nhiều khi người ta chẳng họp hành gì cả, mà chỉ yết bảng thế, để kéo nhau đi chơi ( chẳng hạn sau tết đi lẽ bái mà gọi thác đi là du xuân). Nhưng đau là đau ở khía cạnh khác: cái sự nói dối trắng trợn. Người ta coi thường và làm hỏng hết công việc của đám người đến quan hệ công tác, nhưng lại nhũn nhặn xin phép, ra cái điều tôn trọng chúng tôi, sợ chúng tôi lắm, phải được phép chúng tôi thì mới đuổi chúng tôi về hôm khác đến như vậy.
Từ góc độ xã hội học mà xét, đây là một biểu hiện sự tha hoá ngôn từ, khi con người không còn làm chủ được công cụ giao tiếp này nữa và bản thân công cụ có một sự phát triển tự thân vô tổ chức ( tương tự như tình trạng tế bào trong ung thư), sớm muộn dẫn đến tình trạng nổi loạn.
Bắt đầu là sự phát triển vô tội vạ của số lượng. Tiếp đó là những biến dạng kỳ dị, khi sự không phù hợp giữa nội dung và phương thức biểu hiện ngày càng trở thành một thiên hướng không thể cứu vãn.
Tương tự như tình trạng giao thông làm chậm tốc độ đi lại-- sự hỗn loạn trong ngôn ngữ cũng ngăn trở sự tiếp xúc giữa người ta với nhau và làm giảm GDP xã hội – nghĩ xa một chút phải thấy như vậy.
Nhưng ở đây ta hãy nói với nhau ít chuyện cụ thể.
Một lần lẩn mẩn tra từ điển tiếng Việt, tôi bắt gặp vài chục từ ghép đi liền với chữ nói, tạm ghi ra như sau: nói bóng nói gió, nói càn, nói cạnh nói khoé, nói chọc, nói chơi, nói chua, nói cứng, nói dựa, nói dóc, nói dối, nói điêu, nói gạt, nói gần nói xa, nói gở,
nói hớt, nói khoác, nói lảng, nói láo, nói leo, nói lửng, nói mát, nói mép, nói móc, nói mỉa, nói ngoa, nói ngang, nói nhăng nói cuội, nói như thánh phán, nói như vẹt, nói phách,
nói phét, nói quanh, nói quấy nói quá, nói ra nói vào, nói suông, nói thách, nói thánh nói tướng, nói trạng, nói trống không, nói vơ, nói vụng, nói vuốt đuôi, nói xỏ …
Trong số này, nếu đếm thử sẽ thấy trên chín chục phần trăm là những từ mô tả sự nói với nghĩa xấu.
Hoá ra sự tha hoá tiếng nói ở xã hội ta đã bắt đầu từ lâu lắm.
Điều cần lưu ý thêm là đến nay trong thời hiện đại, khuynh hướng này ngày càng phổ biến. Cảm giác xấu về lời nói đè nặng lên tâm lý con người, bởi sự làm hàng giả len vào tất cả mọi lãnh vực và sự giả dối hứa hão thì tìm đâu cũng ra ví dụ.
Trên một tờ báo chuyên về văn hoá, một lần thấy có thư của một bạn đọc than phiền vì những sự hứa hươu hứa vượn. Một bộ phim quảng cáo là phim kinh dị “made in Việt Nam “ và có tới 69 bài viết trên các báo lăng xê, sẽ không bao giờ bấm máy. Một bộ phim khác được giới thiệu là có đến hai diễn viên Hàn quốc tham gia hoá ra … treo đầu dê, bán thịt chó, bởi chẳng có công ty nào của Hàn quốc phối hợp cả. Đại khái như vậy. Người ta cứ làm hàng giả hàng ngày. Sợ gì đâu, chưa có thứ thuế nào dành riêng cho kẻ hứa hão. Còn muốn tiếp tục giao rắc ảo tưởng ấy ư, hãy chi đậm thêm một chút cho “ những cái lưỡi”, thế là xong tuốt !
Đã in trong Những chấn thương tâm lý hiện đại, 2009
Nguyên bài này có tên là Sự tha hoá của ngôn từ. Sở dĩ tôi đổi lại như trên vì tha hóa là một vấn nạn lớn của xã hội hiện nay, với nhiều biểu hiện phức tạp khác, hiện nay chưa nghiên cứu được.