VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Một hồ sơ nhỏ về Đốt(*)

Đối với thế hệ những người cầm bút sinh ra khoảng những năm 40-50, một trong những nỗi đau đến sớm và còn kéo dài rất lâu, là phần lớn chúng tôi… không biết một ngoại ngữ nào cho rành rẽ. Khoảng những năm 60 cho đến trước 75 ở Hà Nội tiếng Anh ít người biết, tiếng Pháp bị coi như là lỗi thời, và giá biết cũng không có sách để đọc; tiếng Nga còn rất lõm bõm; riêng tiếng Trung Quốc có được dạy nhiều ở các trường phổ thông, song tới 1966 tự nhiên bị xếp xó, vì nguồn sách báo cạn hẳn.
Cũng bởi vì thế, mà khi cần nói chuyện các tác giả văn học nước ngoài, chúng tôi chỉ có cách căn cứ vào các bản dịch, cùng là một ít tài liệu nghiên cứu đây đó, ngẫu nhiên được đọc. Điều ấy đã đúng với nhiều người, lại càng đúng với trường hợp Dostoievski (mà từ đây trở xuống xin gọi là cụ Đốt, cho thân thuộc).
So với nhiều tác giả nước ngoài khác, khi tìm cách bám rễ vào đời sống tinh thần nơi đây, Đốt thật không gặp may, chẳng hạn như so với L.Tolstoi. Dẫu sao thì con đường để Tolstoi đến với bạn đọc Việt Nam cũng sớm được mở ra rộng rãi. Không kể Anna Karénina được Vũ Ngọc Phan dịch từ trước Cách mạng, ngay từ 1961, tập 1 (trong một bộ 4 tập) Chiến tranh và hoà bình đã bày bán rộng rãi. Tiếp đó đến Anna Karénina bản dịch lại, đến Phc sinh, đến truyện vừa Sévastopol… Tài liệu nghiên cứu giới thiệu về Tolstoi cũng sớm được phổ biến một cách khá hào phóng và toàn là những lời lẽ tốt đẹp.

Riêng với Đốt thì ngược lại.
Năm 1956, nhân 75 năm ngày mất của Đốt, Hội đồng hoà bình thế giới đưa ông vào danh sách các nhà văn được kỉ niệm (cùng với H.Heine và Kalidasa). Và ngày 21/12, nhà văn Nguyễn Tuân có nói chuyện ở Câu lạc bộ Đoàn Kết về Đốt. Song hồi ấy bọn tôi còn đang đeo khăn đỏ cắp sách đi học cấp I, cấp II, đâu đã nghe thủng mọi chuyện!

Bẵng đi một thời gian dài không thấy ai nhắc đến ông Đốt ấy nữa. Ti ác và trng pht, nghe nói bản dịch đã có từ lâu ở Nhà xuất bản Văn học, không được in ra. Các sách giáo khoa loại như Lch s Văn hc Nga, viết về Đốt một cách rất sơ sài và nặng về phê phán. Cũng nên nói thêm là khoảng đầu những năm 70, người biết tiếng Nga và dùng tiếng Nga chưa nhiều như mấy năm từ 1979-80 trở đi, song đã ngày một đông đảo. Nhưng sự tiếp nhận văn hoá, văn học Nga – Xô Viết ngay từ đầu đã được đặt trong tình thế phải cảnh giác, phải thận trọng. Aitmatov, Baklanov không được phổ biến, các phim Bài ca người lính, Người th 41 được coi như là có chuyện, không được xem, không được bàn. Thành thử cụ Đốt cũng bị vạ lây! Câu chuyện sau đây ở tạp chí Tác phm mi của Hội Nhà văn năm 1971 là một ví dụ. Nguyên năm đó, ở Liên Xô, giới văn học triển khai hai ngày kỉ niệm lớn, là 150 năm ngày sinh của Nikolai Nekrasov, và 150 năm ngày sinh của Đốt. Ở nhiều nước, hai sự kiện này cùng lúc cũng được kỉ niệm chu đáo. Ở ta thì sao? Một người quen của tôi, năm đó làm ở tạp chí Tác phm mi kể với tôi : Các nhà văn phụ trách tạp chí (người trực tiếp làm lúc ấy là nhà thơ Hoàng Trung Thông) cũng biết ông Đốt là to lắm, phải làm một cái gì đấy. Và không ai khác, anh bạn tôi quen kia, do đi học Liên Xô về, được phân công viết một bài về Đốt. Bởi cũng nghe thoáng đã biết mọi chuyện, anh cố viết về Đốt một cách chung chung, không tô đậm cái chất riêng, cái sức hấp dẫn ma quái của Đốt với con người hiện đại. Ấy vậy mà đến phút cuối cùng, bài viết cũng bị xếp xó. Trong số tạp chí cuối năm 1971 chỉ còn mẩu bài ngắn và một đoạn trích dịch thơ của N.Nekrasov (lấy ra từ bản trường ca Ai được sng sung sướng nước Nga) đâu như đều do Hoàng Trung Thông tự tay lo liệu.
Thế là đứt hẳn!

Không kể các bản dịch Đốt được thực hiện ở Sài Gòn trước 1975, và một số có mang ra Hà Nội sau 1975 , thì chính thức là đến 1983 , Đốt mới đến với đông đảo người đọc, qua Ti ác và trng pht (Phạm Vĩnh Cư giới thiệu, Cao Xuân Hạo dịch). Tiếp đó, đến 1988 (  còn hơn chục năm nữa là hết thế kỷ XX ,cũng có nghĩa là trên một trăm năm sau khi Đốt qua đời ), có bản dịch Anh em Karamazov của Phạm Mạnh Hùng. Nhưng chuyện trớ trêu vẫn chưa dứt: Ti ác và trng pht in ra với số lượng 20.200. Anh em Karamazov tập I, đề in số lượng 10.000 cuốn, tập II còn có 3.000 cuốn, và tập III là 1.000. Khốn khổ cho Đốt (hay cho chúng tôi), là khi ông bắt đầu tới Hà Nội thì thị trường sách nơi đây đã đầy những best-seller của Mỹ, sách trinh thám của Anh, Pháp, không mấy ai còn bụng dạ nghiền ngẫm ông cho kĩ lưỡng.

đến ni ám nh
Song cái lạ của cuộc đời là thế, tôi cam đoan rằng mặc dù không được đọc Đốt, nhiều người trong giới cầm bút trẻ ở Hà Nội trước 1975 vẫn rất hay nhắc đến Đốt, và một cái gì không có thực mà chỉ có trong tưởng tượng, cái đó vẫn hiện hữu chung quanh chúng tôi. Trong những câu chuyện hàng ngày, những cuộc luận bàn về văn chương của một số anh chị em cùng lứa với tôi  hồi ấy như Lưu Quang Vũ, Đỗ Chu, Nguyễn Khắc Phục, Bùi Bình Thi, … cái tên Đốt vẫn đi về, và một cách hiểu về Đốt cũng định hình. Có thể là nhiều khi bọn tôi nói liều nói lĩnh, nói những điều chỉ nghe thoáng được đây đó, nhưng không sao, không ai bảo ai, mọi người đều có cái lí khá giống nhau, đại khái, cứ ông Lép (Tolstoi) mà như thế này, thì ông Đốt chắc phải ngược lại, phải là một cách nhìn nhận, cách xem xét, một luồng ánh sáng khác hẳn. Mà ông Lép thế nào, mọi người có biết ít chút. Đấy, Đốt của chúng tôi ban đầu mang một màu sắc huyền thoại như thế đấy!
Riêng trường hợp của tôi thì có thêm một tác động nhỏ như sau :

Ở tạp chí Văn ngh Quân đội (cơ quan  tôi từng công tác) năm ấy, sau những cuộc đấu hót ồn ào trong cái phòng nhỏ lát đá hoa (nguyên là toa – lét, nhưng lâu ngày không dùng, nay được lau thật sạch, dùng làm phòng làm việc), thỉnh thoảng nhà văn Nguyễn Khải còn nán lại, nói với tôi ít chuyện riêng. Khi ngồi giữa đám đông, Nguyễn Khải có thói quen tô đậm cái chất phàm tục trong con người và nghề nghiệp của mình lên, nào chỉ lo viết nuôi con, nào sự đời thế nào thì cứ viết thế, chứ có gì phải tìm tòi cho rắc rối! Nhưng lúc nói chuyện tay đôi, thì anh trở nên nghiêm chỉnh hẳn. Anh nói những điều tâm huyết anh muốn đặt vào mỗi cuốn sách. Anh kể những điều anh mới học được và tìm cách vận vào trang viết của mình. Anh dẫn ra những ý tưởng anh mới đọc từ Carnet của Camus, từ J.Corteau, từ S.Zweig (tất cả đều qua các văn bản tiếng Pháp). Và tất nhiên là anh càng hay nói đến Đốt. Anh em Karamazov, như lời thú nhận của Nguyễn Khải hồi ấy, là khó quá, cao quá, anh không hiểu được, nhưng Ti ác và trng pht thì hay lắm, viết dễ hiểu và sâu sắc lắm, bất cứ người viết văn nào cũng phải đọc mới phải. Tôi thì không nói làm gì, vì tiếng Pháp tôi không biết mà tiếng Nga cũng mới tập tọng, nhưng Nguyễn Minh Châu trước đã học tiếng Pháp được kha khá, bởi vậy sau tất cả mọi điều, Nguyễn Khải không quên căn dặn:
- Phải bảo Nguyễn Minh Châu cố mà đọc Ti ác và trng pht mới được. Đọc rồi, mới nghĩ thêm được một ít về cái nghề thiêng liêng mà mình theo đuổi.

Có lẽ đấy là những mầm mống đầu tiên kích thích một người tự học như tôi tiếp tục tìm đến Đốt. Từ lúc nào không biết, nhà văn này trở thành một ám ảnh, tôi không thể từ bỏ nổi. Không đến thẳng được với ông, thì tôi tìm cách quanh co vòng vèo. Nói nôm na là không đọc được nguyên bản tác phẩm của Đốt thì tôi nghe mọi người bàn về Đốt vậy. Trong việc này, một ít tiếng Nga mới học có giúp tôi ít nhiều cũng như những tài liệu linh tinh tôi nhặt nhạnh được đây đó, có bồi đắp thêm cho tưởng tượng một ít da thịt và một hồ sơ nhỏ của tôi về Đốt được gom góp trong từng ấy năm, đã hình thành.
Hai mẩu chuyện nhỏ có liên quan đến Nguyễn Tuân, giúp tôi thêm yên tâm trong cách làm của mình.
Mt là, năm đó, 1971, khi kỉ niệm 150 năm sinh của Đốt, Hội Nhà văn Liên Xô có mời một hai nhà văn của mình sang dự. Thói thường ai cũng vậy, đi thì cũng phải chuẩn bị đọc qua một vài tài liệu có liên quan đến buổi lễ mà mình có mặt, bởi vậy, nhà văn nọ, được cử đi, mới nảy ra ý định: chi bằng đi hỏi ông Tuân, ông này đã có tiếng là thích Đốt, chắc có thể giảng giải cho mình ít nhiều. Theo lời kể của Nguyễn Khải – anh cũng nghe được đâu đó – thì Nguyễn Tuân, bằng cách nói rất phũ của mình, đã trả lời nhà văn kia như thế này:
- Thôi ông ạ, sách báo người ta viết về Đốt chất hàng núi, ông có nghe tôi bây giờ cũng như chim chích lạc rừng, vậy nên ông cứ sang đấy mà nghe rồi đừng nói gì là được rồi.
Hai là năm 1982, khi đưa bài nói chuyện về Đốt cho Tuyn tp, T.II, Nguyễn Tuân có viết thêm: “Sách đã viết về Đốt Xtôi (cách viết của Nguyễn Tuân trong nguyên văn – V.T.N) rất nhiều, tôi cũng chỉ biết được một số nào thôi (…) Tôi ngờ rằng một số từ, một số ảnh, cùng là hình tượng nào đó đã nhập vào trong bài viết tôi đọc ở buổi kỉ niệm gần ba chục năm nay. Lấy và mượn của ai, ở đâu, ở cuốn nào thì cứ dẫn ra thôi, chứ có gì và có sao đâu. Tội một nỗi là chỉ mang máng ngờ ngợ, chứ thật ra cũng không nhớ được ở đâu và là của ai nữa.
Vậy mong bạn đọc lượng tình cho”.
Đến Nguyễn Tuân còn viết như thế nữa là, bản thân tôi nghĩ rằng tôi cũng có quyền bắt tay vào công việc khiêm tốn là lọc ra từ ý kiến của mọi người những gì mình cảm thấy tâm đắc nhất; nếu như sức đọc của mình có hạn thì mai đây, sẽ có những người cung cấp những tài liệu hay hơn, giá trị hơn; gộp cả lại, những ý kiến này sẽ gợi mở những suy nghĩ độc lập của mỗi chúng ta về nhà văn ta muốn tìm hiểu.
II. Đốt là nhà văn như thế nào,
hay là mt s nhn xét quan trng ca các tác gi
nước ngoài v con người và tác phm ca Đốt
Điều quan trọng nhất người ta muốn tìm ở một nhà văn, mà cũng là chỗ bắt đầu mọi tác động của một ngòi bút đến bạn đọc, đó là quan niệm về con người: đọc anh, người ta hiểu thêm về con người ra sao?
Về điểm này, Đốt có một ý thức khá rạch ròi. Ông viết như một tuyên ngôn: “Con người là một bí mật. Cần phải tìm cách đoán nhận nó, và nếu có mất suốt đời để đoán nhận nó thì cũng đừng nên nói là mất thời giờ. Tôi muốn biết cái bí mật đó, vì tôi muốn là người”.
Khi nói về Đốt, các nhà văn thường cũng bảo “Ông đã biết tìm ra con người trong con người”. “Ông kích thích chúng ta đi tới những hiểu biết sâu sắc hơn về đồng loại”. Theo nhà bác học Einstein, cái đích mà Đốt đặt ra ở nhiều tác phẩm là “hướng mọi sự chú ý của chúng ta vào những câu đố của đời sống tinh thần”. Mà còn gì tiêu biểu cho con người hơn đời sống tinh thần ở họ?
Đốt đặt vấn đề trong con người tiềm tàng những lực lượng to lớn như thế nào.
Nhân vật Mitia trong Anh em Karamazov: “Con người rộng, quá rộng. Tôi sẽ thu hẹp nó bớt lại”.
Đây có lẽ là điểm xuất phát khiến cho hiện thực được ông miêu tả thường khi vượt qua cái khuôn khổ thông thường, mà trở nên kì dị, ma quái, chỉ trong tưởng tượng mới có.
Một nhà văn phương Tây thú nhận: “Đối với tôi, Đốt là một đỉnh núi phủ đầy tuyết và dẫn lên trời. Tôi sợ hãi nhìn ngọn núi đó từ xa, nhưng không bao giờ có ý nghĩa dám lại gần”.
Khía cạnh thấy rõ nhất của con người được miêu tả trong Đốt: Con người ở đây tranh cãi xung đột với nhau không phải vì những chuyện lặt vặt, rời rẽ, mà vì những vấn đề cơ bản của đời sống. Nhà văn nói về loại nhân vật chủ yếu của mình: “Đó là con người của tư tưởng. Tư tưởng ôm trùm hắn, thống trị hắn và có một đặc điểm là nó không chỉ ở trong đầu óc hắn, mà ăn vào trong tâm tính, thái độ, cử chỉ, nó khiến cho con người lúc nào cũng đau khổ và dằn vặt, và chỉ mong muốn được biến tư tưởng có trong mình thành ra hành động”.
Nói như H.Troya, cái quyền lực lạ lùng của tư tưởng trên thể chất, sự vượt qua thể chất bằng tư tưởng, những điều ấy đã ám ảnh Đốt.
Tuy nhiên, ở đây, có sự phân biệt một bên là tư tưởng, khi nó tồn tại dưới dạng những nguyên lí khúc chiết rành mạch; và bên kia là tư tưởng, đã đi vào con người, nó trở nên rối rắm, hỗn loạn, không rõ ràng và thường khi mang sắc thái chủ quan, nhưng lại cụ thể sinh động, hôi hổi sức sống. Tư tưởng mà Đốt nói tới trong tác phẩm của mình là cái thứ hai chứ không phải cái thứ nhất.
“Nhân vật của Đốt hiện ra không phải như một hiện tượng thực tế có những dấu hiệu xã hội điển hình hoặc một cá thể có cá tính vững chắc, cũng không phải như một khuôn mặt nhất định phối hợp những nét có ý nghĩa phổ biến và khách quan để rồi tổng hợp lại, sẽ trả lời cho câu hỏi: Anh là ai?
Không, nhân vật của Đốt là một góc độ nhìn đặc biệt vào thế giới và vào chính mình” (M.Bakhtin).
Khi đã sống hết mình với một tư tưởng, các nhân vật của Đốt luôn phải suy nghĩ để tìm cách xây dựng lại cái bên trong của chính mình.
Đốt miêu tả một cách hết sức tường tận bộ máy hoạt động tinh thần của các cá nhân đó trong những bước ngoặt. Ông nói rõ: sự cải tạo hoàn cảnh đòi hỏi phải tự gạn lọc, nói chung cá nhân phải biết nói sự thật về chính mình, biết cả quyết nhìn mình một cách tỉnh táo.
Tư tưởng của Raskolnikov là kinh khủng song có thể thấy nhân vật ấy rất tận tuỵ với tư tưởng đã hình thành trong đầu.
Còn ở Ivan Karamazov, người ta nhận ra sự không phù hợp đáng sợ giữa cái quy mô thế giới, mà tư tưởng Ivan muốn bao quát, với cái khuôn khổ chật hẹp của mục đích cá nhân mà tư tưởng đó bị lôi cuốn và lợi dụng (Dneprov).
Một trong những ý tưởng độc đáo táo bạo song lại là tín điều sâu sắc nhất ở Đốt và có lẽ chỉ Đốt mới dám nghĩ tới, mới dám phát biểu: “Có một thứ quyền năng có thể ngang hàng và đôi khi vượt quá quyền lực về tư tưởng – đó là quyền lực của cái đẹp”.
Chính ở chỗ này, Đốt hiện ra khác hẳn, thậm chí đối lập với nhiều nhà văn đương thời, trong đó có Lev Tolstoi:
Cái gốc trong lập trường xem xét đời sống của Tolstoi là đạo đức. Ông không thể chịu được khi thấy người ta bảo cơ sở của nghệ thuật là cái đẹp.
Còn tư tưởng chủ đạo của Đốt lại là cái đẹp cứu vãn thế giới.
Một bên là một nền đạo đức có sắc thái thẩm mĩ.
Một bên là một nền thẩm mĩ có sắc thái đạo đức.
Thành phần giống nhau nhưng thực chất khác nhau – thú vị là ở chỗ đó. (Seleznev).
“Đối tượng tìm tòi của Đốt: Mối quan hệ con người và thực tế, con người và thế giới, hay con người và Chúa.
Nhân vật của Đốt đối diện với toàn thế giới, hành động của nó làm xao động cả thế giới. Luôn luôn nó muốn để lại trong thế giới một dấu vết gì đó. Và trước tiên, nó muốn thử xem thế giới là gì, cái thế giới ấy có sẵn sàng thay đổi không và sẽ thay đổi như thế nào” (Kirpotin).
Theo Đốt: Chiến tranh và hoà bình của Tolstoi là bức tranh lịch sử của một cái gì đã qua. Về phần mình Đốt muốn không ngừng thấm sâu vào cuộc sống hiện thời, ở dạng chưa thành của nó. Ông không quan tâm tới cái cuộc sống đã ổn định. Ông muốn biểu hiện một cuộc sống không ai đoán được. Ông chỉ lo tìm câu trả lời cho những câu hỏi đang hành hạ mình, và luôn luôn bị dày vò bởi sự đợi chờ ánh sáng sẽ tới.
Theo Đốt, chủ nghĩa hiện thực mà không biết nắm vững, biểu hiện và giải nghĩa một phần cái mới, thì đó là chủ nghĩa hiện thực đáng nghi ngờ.
Ngược lại, khi thế giới đang bao trùm trong khủng hoảng, khi trong đó, đóng vai trò thống trị là sự hỗn loạn vô trật tự, sự dối trá và phi nghĩa, khi bóng tối chưa bị đẩy lùi… nhà văn hiện thực có nhiệm vụ thức tỉnh, tức giúp cho người ta thấy những điều chưa tốt, và làm cho người ta không thể sống yên ổn.
Chủ nghĩa hiện thực của Đốt không an ủi, không vỗ về một cách cải lương bởi ông không làm cho người ta tin vào bề mặt giả dối của cuộc sống hàng ngày, những tín điều khô cứng, những mẫu mực quan liêu và trì trệ của nó. Quá lớp vỏ hình như bình thường và tầm thường cần lật ra những bùng nổ đang được chuẩn bị mà không ai biết, những đổi thay không nhìn thấy trong đời sống chung và ở từng cá nhân (Kirpotin).
Theo Dneprov, Đốt luôn luôn nói đi nói lại rằng, bản tính con người không thay đổi. Nhưng ông biết mang lại cho cái bản chất tự nhiên này một định hướng lớn lao. Ở các nhân vật của ông thường thấy nổi lên cái yêu cầu bức bách là muốn giải quyết các mâu thuẫn; một khả năng vận động; và một tiềm năng thay đổi, tiềm năng xác lập sự thống trị cái tôi lý tưởng trên cái tôi thực tế. Thành thử với nhiều người, ông lại hiện ra như một kẻ tích cực tuyên truyền cho quan niệm rằng con người phải hành động, phải tự vượt lên, và phẩm chất này làm cho con người không còn là vật ngăn cản cho bản thân họ nữa.
Tương tự như vậy, một mặt Đốt có thiên hướng săn tìm và kích thích ở con người nhu cầu tự do, ý tưởng đi đến tận cùng của mọi ranh giới mà cuối cùng là ý tưởng nổi loạn, mặt khác, ông lại đề cao tinh thần khoan dung, chấp nhận. ở ông, đôi khi con người thích sự nghỉ ngơi, thích được chết nữa, hơn là thích được tự do phân biệt điều thiện và điều ác.
Ngược với quan điểm cho rằng con người hoặc dữ, hoặc hiền, Đốt chỉ rõ con người về bản chất vừa dữ vừa hiền, kẻ thù gần nhất của nó là chính nó (Dneprov).
Theo Đốt, tâm lí cá nhân là cuộc đấu tranh giữa Chúa trời và ác quỷ.
Trong thái độ với thế giới, con người ở Đốt là sự phối hợp giữa phục tùng và chống đối, giàu thiện cảm và lạnh lùng khắc nghiệt, tin cậy và không tin đến cùng. Đốt chỉ rõ sự phân đôi của cái thế giới dường như thống nhất, là thế giới của các cá nhân (B.Meilakh)
Nghệ thuật của Đốt cuối cùng tìm cách tác động tới con người thông qua việc đánh thức nhu cầu tự nhận thức ở họ. Theo Kariakin, sự tự nhận thức ấy là đồng nghĩa với sự chiến thắng mọi thói quen tự lừa dối, đồng thời đồng nghĩa với sự thích ứng đến mức cao nhất. “Sống trong bất cứ điều kiện nào, đó là truyền thống của họ Karamazov nhà ta”. Sau tất cả những vật vã tìm tòi, những truy đuổi cuồng loạn, có kèm theo cả máu và nước mắt, câu nói đó của một nhân vật trong Anh em Karamazov vang lên như một tiếng nói cuối cùng, và còn để lại dư âm mãi trong lòng những ai muốn chống lại mà vẫn phải thường xuyên đầu hàng cuộc sống.
Tính kịch độc đáo trong các nhân vật của Đốt là ở chỗ bên trong mình con người va chạm với những ngăn trở rất bi thảm. Bạn đọc tiếp xúc với tác phẩm của Đốt, do đó, có thể có khả năng tránh được những ngây thơ trong thái độ đối với chính bản thân họ. Mỗi người phải biết đào xới vào mình không phải một cách tuỳ tiện gặp đâu hay đấy, mà là rọi sâu kĩ lưỡng vào mọi góc tâm tư, xem đó như một khâu trong sự hình thành cá nhân mà thiếu đi sẽ gây ra những tai hoạ xã hội rất lớn.
Đào xới đến tận cùng, dĩ nhiên là tới khu vực của vô thức, tiềm thức. Ở Raskolnikov, cái ý thức của anh ta là lạnh lùng, nhưng trong tiềm thức lại thấy có sự hoà hợp với cái tốt. Trên phương diện này mà xét, cái vô thức của Đốt rất hiện đại. Nó không phải là một thứ bản năng phi cá tính mà ngược lại, nó cũng được cá tính hoá. (Dneprov).
Đốt nói về nghề văn và về sứ mệnh nghệ thuật:
- Tôi là một nhà hiện thực theo ý nghĩa cao nhất của từ này, tức là tôi miêu tả tất cả những gì sâu thẳm của tâm hồn con người.
- Tôi hãnh diện vì lần đầu tiên đưa ra con người chân chính, lần đầu tiên lột trần mặt kì dị và bi thảm của nó, cái bi thảm nằm ngay trong sự nhận thức của cái kì dị.
Một dịp khác, ông giảng giải kĩ lưỡng hơn:
- … Chỉ có tôi lật ra sự bi thảm bí mật của con người ở trong sự đau khổ, tự hành hạ; ở trong ý thức về cái đẹp và nỗi bất lực, không thể đạt tới nó; ở ý thức một cách rõ rệt về những điều bất hạnh này, và tất cả đều vậy, và tình thế bi đát đến nỗi không thể sửa chữa gì cả. Cái gì có thể thúc đẩy sự sửa chữa bây giờ? Phần thưởng? Lòng tin? Nhưng biết nhận phần thưởng của ai? biết tin vào ai? Người ta chỉ bước một bước khỏi tình thế hiện thời thôi là sẽ tạo ra một bước ngoặt ghê gớm, sẽ dẫn đến tội ác. Thật là bí mật.
Đốt hiểu rất rõ đâu là những đóng góp của mình cho đời sống tinh thần con người đương thời và cả cho hậu thế:
–Bí mật và nhà văn của những điều bí mật – các nhà bình luận văn học trên các báo thường thích lặp đi lặp lại như vậy mỗi khi cần nói về tôi, và họ cho đấy là một sự hạ thấp đối với tôi. Khốn khổ! Họ đâu có ngờ, cái đó lại làm nên vinh quang của tôi, vì cái đó là sự thật. Nguyên nhân nảy sinh tâm lí muốn vạch trần ra mọi bí mật này: ở tôi đã chết lòng tin vào những nguyên tắc chung. Với tôi, giờ đây không gì còn thiêng liêng nữa .
Có lẽ chính căn cứ vào điểm này mà A.Camus đã nói về tính chất hiện đại của Đốt, cũng là sự gần gũi giữa con người được miêu tả trong Đốt với người đương thời: “Bây giờ chúng ta biết rằng nhân vật của Đốt không phải là những người kì lạ và phi lí. Cũng giống như chúng ta, họ có một trái tim và nếu bảo Lũ người qu ám là một cuốn sách tiên tri, thì đó, không phải vì nó mang lại cho ta chủ nghĩa hư vô, mà là vì nó trình bày những tâm hồn tan vỡ, không có khả năng yêu, và đau khổ vì không có khả năng yêu, khao khát lòng tin và không sao tin nổi. Giờ đây chính loại nhân vật này đang lấp đầy xã hội, lấp đầy thế giới tinh thần của chúng ta”.
Về cách tân nghệ thuật, mà cũng là về cách nhìn thế giới của Đốt:
–Trong tiểu thuyết của Stendhal hay Tolstoi, người ta thấy một thứ ánh sáng đều đều tản mạn, bao giờ cũng vậy, tất cả các sự vật được soi rọi giống nhau, và các khía cạnh của chúng nổi lên đều đặn. Nhân vật dường như không có bóng. Còn trong tác phẩm của Đốt cũng như trong tranh của Rembrant, cái quan trọng nhất chính là cái bóng.
Đây là nhận xét của A.Gide về “kĩ thuật” nhìn con người ở Đốt. Theo Gide, tác phẩm của Đốt là sự bác bỏ thẳng thừng công thức nổi tiếng của Stendhal “tiểu thuyết là một tấm gương di chuyển trên đường”. Với Đốt, cuộc đời là đầy bóng tối, và viết nghĩa là sự đột nhập vào thế giới của những bí ẩn đó. Cũng bởi vậy, mà theo Gide, tác phẩm của Đốt mới có một sự hấp dẫn đặc biệt. ở chỗ này Gide cũng đối lập Tolstoi với Đốt. Có lần Gide đã nói với Roger Martin du Gard: “Điều mà anh nên tự trách mình, cũng là điều mà tôi hay trách Tolstoi: các nhân vật của ông không mang lại chút bí mật nào hết”. Vượt lên sự gây hấp dẫn thông thường, Gide nói về một quan niệm về con người bao trùm trong Đốt: “Trong  ông (chỉ Đốt) luôn luôn có cái gì đó để nói, một cái gì đó mới mẻ quan trọng. Theo tôi hiểu, điều có ý nghĩa chủ yếu không phải tự thân bức tranh cũng như hành động bên ngoài của nhân vật, mà là một nỗi lo âu bí mật nào đó, ông chia sẻ trong mỗi nhân vật và cũng là điều ông muốn lây truyền nơi độc giả”.
Faulkner cũng bảo rằng, ông yêu nhà văn này ở “cái sức mạnh ghê gớm, thấm sâu vào con người và có khả năng cùng đau khổ với con người”.
Trở lại với một câu chuyện đây đó đã có đả động qua ở các phần trên: mối quan hệ giữa Đốt và Tolstoi.
Như là một sự bố trí công phu của tạo hoá, hai nhà văn ấy là hai số phận khác hẳn nhau. Tolstoi sớm nổi tiếng như một Nga hoàng trong đời sống tinh thần của nước Nga lúc ấy, bản thân ông lại giàu có, sang trọng, tha hồ sống theo ý muốn. Còn Đốt lúc nào cũng bị ám ảnh bởi việc kiếm tiền. Các nhà xuất bản trả cho tác phẩm của Đốt 250 rúp một trang tác giả mà còn kì kèo, bớt lên bớt xuống, trong khi đó sẵn sàng trả cho Anna Karénina 500 rúp một trang. Hai người, do đó, càng không bao giờ muốn nhìn mặt nhau.
Mặc dù vậy cả hai ông lại luôn luôn phải nghĩ về nhau. Tolstoi nói với người quen: “Nếu gặp Đốt, hãy nói hộ là tôi yêu ông ta. Gogol, Đốt, và kì lạ bao nhiêu, Puskin, đó là những nhà văn tôi đặc biệt yêu mến. Riêng Đốt, ông rất gần gũi với tôi về mặt con người và có lẽ ông là nhân vật duy nhất mà tôi có thể hỏi rất nhiều và chắc là có thể trả lời tôi rất nhiều”.
Khi Tolstoi đào tẩu khỏi gia đình ở Yasnaja Poliana, ông chỉ mang theo có bộ Anh em Karamazov. Tolstoi thường bảo ở tác phẩm của Đốt, từng chỗ thì rất hay, nhưng toàn bộ thì khủng khiếp quá.
Về phần mình, Đốt cũng rất thích Anna Karénina của Tolstoi. Nói chung, Đốt coi thế giới trong Tolstoi, cũng như trong Homére, là thế giới của sự hoà hợp và đã được miêu tả rất thiên tài, chỉ có điều nó không phải là cái thế giới chúng ta đang sống.
Thái độ của họ với những vấn đề quan trọng của đời sống hết sức khác nhau. Kirpotin so sánh hai tác phẩm được viết gần như đồng thời để thấy giữa chúng là một vực thẳm:
“Trong Chiến tranh và hoà bình (được viết từ 1863, in ra khoảng 1867-1869) thế giới hiện ra đầy trí tuệ, thế giới ấy đi tới mục đích đã định trước. Trong quá trình phát triển của lịch sử, mọi cảnh tượng phá hoại được khôi phục, mọi điều ác bị đẩy lùi, mỗi con người nhận được đúng những gì mà chính họ đã gieo trồng.
Còn trong Ti ác và trng pht (in 1866), thế giới sục sôi cao độ, sự phi nghĩa và giả dối của nó trở nên không thể chịu nổi. Và Raskolnikov cự tuyệt nó với tất cả những ảo tưởng giáo điều và những huyền thoại đẹp đẽ được nghĩ ra để tô điểm cho nó.
Trước kia, thế giới dành cho mình quyền lên án các cá nhân có ý định phê phán những giá trị thủ cựu. Giờ đây, Raskolnikov tố cáo thế giới đang tan rã, đang tự huỷ diệt, và nổi loạn chống lại nó”.
Một nhà nghiên cứu phương Tây là Georges Steiner còn nêu ra một sự đối lập đầy đặn hơn, cụ thể hơn:
“Tolstoi là kẻ kế thừa vĩ đại nhất truyền thống của anh hùng ca, còn Đốt là một trong những thiên tài bi kịch vĩ đại nhất sau Shakespeare. Tolstoi: tinh thần bị ám ảnh bởi lí trí và sự kiện. Đốt – kẻ miệt thị chủ nghĩa duy lí và chỉ tha thiết săn đuổi nghịch lí. Tolstoi là thi sĩ của đồng ruộng, của đời sống thôn quê dân dã. Còn Đốt là típ người thành thị, con đẻ của văn minh đô thị với tất cả những tự do và đau khổ mà thứ văn minh này mang lại cho con người. Với khát vọng to lớn, Tolstoi sẵn sàng tự huỷ và phá huỷ những gì bao quanh trong cơn điên cuồng cốt đạt tới chân lí. Đốt đặt vấn đề một cách khác: “Thà chống lại chân lí còn hơn chống lại Chúa. Đáng coi thường là những gì dễ hiểu. Phải chủ trương huyền bí”. Tolstoi luôn luôn đi theo đại lộ của đời thường. Đốt thì dấn mình vào mê lộ của cái khác thường, trong những hầm hố và đầm lầy của tâm hồn. Tolstoi, ấy là một con người khổng lồ, bước dài trên mặt đất vững chãi, đi tìm cái thực, cái chân xác bằng toàn thể kinh nghiệm và cảm giác. Đốt thì luôn luôn ở bên bờ ảo giác ma quái, luôn luôn mở lòng ra đón nhận sự xâm nhập của cái siêu nhiên. Tolstoi là sự nhập thế của sức khoẻ và nói chung của một sinh lực thần thánh. Còn Đốt, Đốt là tổng số năng lực con người run rẩy dưới sức nặng của bệnh tật và ám ảnh, Tolstoi nhìn định mệnh con người với con mắt sử gia, trong sự trôi chảy của thời gian. Đốt chỉ muốn nhìn con người trong hiện tại, và trong sự im lìm mà lại phập phồng hào hển của những khoảnh khắc bi tráng”.
Thêm một hai nhận xét nhỏ có liên quan đến đóng góp của tác giả Ti ác và trng pht trên phương diện hình thức thể loại:
- Tiểu thuyết của Đốt, đó là tiểu thuyết tự thú, đồng thời là tiểu thuyết bi kịch; tiểu thuyết độc thoại, tiểu thuyết triết lí – chính luận. Đó cũng là một dạng đặc biệt của tiểu thuyết phiêu lưu và thường khi có những hơi hướng xa gần của tiểu thuyết trinh thám.
Một số khuynh hướng chung của nghệ thuật hiện đại, không gì khác, là sự tiếp tục mặt này hay mặt kia trong kinh nghiệm nghệ thuật của Đốt (Dneprov).
- Đốt xa lạ với loại nhà văn cái gì cũng biết. Trong khi kể chuyện, ông luôn luôn chỉ ra những yếu tố có thể gây khúc xạ cho suy nghĩ của người kể chuyện. Ông không quên chỉ ra những mâu thuẫn nảy sinh do có sự khác nhau trong nguồn tài liệu cung cấp, trong bằng chứng, lại không quên đưa thêm cả vào tiếng đồn mà ông thừa biết chúng là nhiễu sự thực. Sau khi nói rõ rằng trong một số việc, chính người kể chuyện cũng chưa biết đầu đuôi ra sao, ông sẵn sàng công khai cả quá trình thu thập tin tức. Với Đốt, điểm nhìn càng khác nhau, người ta càng đi gần hơn tới thực tế (Likhachev).
Trong tiểu thuyết Nhng min trái chín Evtuchenko nửa đùa nửa thật bảo rằng có thể chia nhân loại làm hai nửa, một bên là những ai có đọc Anh em Karamazov, và một bên là những ai không đọc.
Suy rộng ra, cũng có thể bảo nhân loại gồm hai nửa, những người thích Đốt và những người không thể đọc nổi, không chịu nổi, và còn căm ghét Đốt nữa.
1996

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

أحدث أقدم