Những thích ứng với hoàn cảnh đã làm nên sự thay đổi lớn lao trong số phận một nhà thơ. Với Cách mạng và kháng chiến, một Xuân Diệu từng mang tiếng là quá Tây không chỉ trở thành một nhà thơ công dân sôi nổi mà còn một nhà thơ tình có một cảm quan rất thực tế, luôn luôn biết chăm sóc đến những cái nho nhỏ bình thường trong đời sống, đồng thời lại tự mở rộng trong việc ghi lại những xúc cảm đa dạng ở con người.
Chữ bình thường vốn có thể hiểu với nhiều nghĩa khác nhau. Thời tiền chiến, bình thường ở Xuân Diệu có hàm ý thiên về cuộc sống trần trần mà ai cũng thấy hàng ngày. Ông đã có dịp bộc lộ điều này qua những lời chê trách Hàn Mặc Tử. Với ông, thơ Hàn nhiều khi như tiếng nói của kẻ trần truồng đi ngoài phố, đột nhiên mà khóc, đột nhiên mà cười, miệng kêu tôi điên đây, tôi điên đây. Ông cho Hàn là quá đáng. Và là những gì gì nữa không thể hiểu được. Dưới cái bề ngoài giống như một bà già lắm lời khó tính, ở đây ( cũng như nhiều lần về sau ) Xuân Diệu đã nói thực. Ông không chịu được những gì siêu việt tức vượt lên thông thường, hư vô, xa lạ.
Thơ tình Xuân Diệu hồi ấy đã mang dáng dấp phàm trần. Thế nhưng người ta lại phải nói ngay rằng nó có chút gì đó cao sang, nuột nà, quý phái. Còn thơ từ sau 1945 có một cốt cách khác. Nó bình thường với nghĩa mộc mạc giản dị như thứ quà của người nghèo.
Nhà thơ lắng nghe lòng mình và ghi lại đủ thứ rung động mà người khác có thể cho là lặt vặt. Một lần đèo người yêu trên xe đạp “ Em ngồi ríu rít ở sau xe – Em nói lòng anh mải lắng nghe – Thỉnh thoảng tiếng cười em lại điểm -- Đời vui khi được có em kề.” Một lần nghe mưa, nhớ tới người yêu đang xa cách, tự hỏi không biết giờ này em đang làm gì, để rồi thầm nhủ “ Thôi em nghỉ việc khuya rồi--Chăn mưa em đắp cùng trời với anh “. Nhìn áo mà nhớ người, cái mô-típ ca dao ấy được một nhà thơ thời nay nhắc lại, sao có gì tội tội “ Áo nhìn anh lại thương em – Hiểu vì vất vả cho nên vai gầy “. Ngay những lần đón nhau sau xa cách, người ta vẫn giữ được cái chừng mực phải chăng, biết hoà tình cảm riêng của mình vào đời sống cộng đồng : “ Anh là quê hương của em, em trở lại nhà -- Em là quê hương của anh, anh mừng đi đón “.
Đó là tâm tình ngự trị ở những con người của một thời đại quá vất vả do đó dễ sinh ra khắc kỷ. Thuở ấy, người ta luôn luôn phải tự nhủ rằng mình không có quyền lo cho cá nhân, không có quyền đòi hỏi, nay không phải lúc hưởng thụ. Sự tự nguyện sống cái đời sống hàng ngày với bao nhiêu lo toan chắt chiu nhặt nhạnh, làm thay đổi cả những cảm quan con người bình thường. Ai cũng biết rằng thịt bổ lắm nhưng không có thịt thôi thì hãy khen rau là ngon ; và bởi vì đã từng có phen bị đói nữa không có cả rau mà ăn, nên cái điều kêu rau ngon vẫn chính là lời nói thật.
Nam Chi Đặng Tiến từng có sự ví von xác đáng về Xuân Diệu giữa hai thời kỳ : “ Xuân Diệu đã cướp một mâm tiệc Bồng Lai đem về làm một bữa cơm trần thế cho những người ăn vì cần ăn, chứ không phải ăn cho vui miệng. Thơ Xuân Diệu ngày xưa là áo gấm, thơ Xuân Diệu ngày nay là manh áo nâu sứt chỉ đường tà.”
Cái điều đúng cho thơ Xuân Diệu nói chung đó càng đúng với thơ tình nói riêng.
Trong cái vẻ bình dân cơm bụi, nhiều bài thơ tình Xuân Diệu thời gian sau 1945 đơn sơ mộc mạc trong cách cảm cách nói. Khi xuất thần, nó có vẻ đẹp của ca dao hoặc thơ cổ điển, tưởng không thuộc về thời gian nào, tuy rằng nhìn kỹ thì lại vẫn mang dấu ấn của tư duy nghệ thuật hiện đại.
Đây là hai câu thơ mở đầu bài thơ Nguyện nói về những ước ao nho nhỏ : Nguyện miếng ngon đừng vắng bóng em – Nguyện cảnh đẹp có êm bên cạnh.
Những câu thơ như thế chỉ có thể có ở một nhà thơ Việt Nam, mà cũng chỉ có thể có ở Xuân Diệu. Bởi đọc lại người ta không khỏi nhận ra cái điều nằm sâu mãi dưới đáy lòng bao nhiêu người Việt và từng được những Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao diễn tả theo nhiều cách khác nhau : miếng ăn ám ảnh con người ; miếng ăn là chuyện tình nghĩa. Xuân Diệu cũng vậy, mặc dầu là một nhà thơ, nhưng ông luôn xem trọng chuyện đời thường chuyện thực tế. Ai đã có dịp gần nhà thơ đều biết, tác giả Thơ thơ hàng ngày rất hay nói về chuyện ăn uống. Trong lúc người khác chỉ nói điều ấy ở chỗ riêng tư thì Xuân Diệu viết thẳng nó lên mặt giấy. Nguyện miếng ngon đừng vắng bóng em … Người đời sau có thể xem thường cái vẻ chân thành cổ cổ của người viết. Thế nhưng cả đến ngày hôm nay nưã, chỉ những người đã có tiếp xúc nhiều với phương Tây và dám nói lên ý nghĩ của mình một cách trực tiếp nhất, mới có thể viết những câu như vậy.
Trong văn nghiệp của Xuân Diệu có một bộ phận là thơ dịch.Thế hệ những người yêu thơ những năm chống Mỹ hẳn nhớ hồi ấy có một dọng thơ bạn bè xa lạ song lại hết sức thân thiết, nhờ Xuân Diệu mà trở nên thân thiết, đó là thơ Blaga Dmitrova. Lạ một điều nếu khi sáng tác và trong việc nhìn nhận đánh giá sáng tác trong nước, Xuân Diệu rất kỵ thơ không vần thì khi dịch Dmitrova, ông lại sử dụng thứ thơ không vần này một cách tinh tế. Thơ dịch bộc lộ một phía khác trong con người nghệ thuật ở Xuân Diệu : ông phục thiện, ông tìm ra hình thức để thích ứng với nội dung, và ông dám có những thể nghiệm. Hơn thế nữa, có thể nói thơ dịch là nơi ông gửi gấm tâm sự cũng tức là nơi ông nói thông qua người khác.
Trở lại với thơ tình Xuân Diệu và thử so sánh với những bài thơ tình chính Xuân Diệu đã dịch.
Một điều dễ thấy : người thi sĩ Việt Nam vẫn có cái cách biểu hiện tình cảm riêng của người Việt. Thơ nhà thơ Pháp Paul Eluard : Anh bước tới em anh bước mãi mãi về ánh sáng -- Đời có thịt xương hạnh phúc đã căng buồm --Ánh sáng tràn trề những mộng và đêm --Hẹn với rạng đông những cái nhìn tin cậy. Hoặc thơ nhà thơ Thổ Nhĩ Kỳ Nazim Hikmet : Khi đạt tới em anh mới biết em là nơi không đạt tới bao giờ. Ngay trong thơ tình, họ vẫn có xu hướng triết lý. So với họ, thì thơ Xuân Diệu cũng như các nhà thơ Việt Nam đời thường và thiết thực hơn nhiều.
Nhưng đấy là xét đại thể. Sự tiếp nhận phương Tây vẫn ngấm dần dần, con người tự mình khác đi mà không hay biết. Trong số những bài thơ dịch, có bài sau đây ít người để ý, nhưng theo tôi mang rõ chất Xuân Diệu :
THƠ NGỢI NÀNG ĐI- TÔ
Những ngày mai của anh hiện trên mặt em
Như gân lá trên lá cây- ăn -bánh
Miệng em khi cười như chạm trong lửa thắm
Vẻ dịu dàng ánh lên trong đôi mắt em
Như giọt nước long lanh trên tấm cừu sinh động mượt êm
Sóng gợn reo say trên làn thân thể
Và lòng anh yêu da thịt của em
Như tiếng chuông ngân đổ hồi ròn rã
Đổ liên hồi trong máu khiến say thêm
Anh như những dòng sông bỏ dòng chảy cũ
Để chảy vào lòng cát sắc em xinh
Anh như những đàn én bay về tổ
Năm năm về tìm trời của em xanh
Mùa lại mùa anh vững bền vẫn ở
Trong mùa xuân bất tận những mơn trớn ân tình
Anh ở trên đất này đặng mà vĩnh viễn
Được lở và bồi trong sóng mạnh của em
Em ái ân hồi anh lại mỗi đêm
Như một trái tim lại hồi nhịp đập
Đời anh, hỡi nàng tiên rượu bồ đào trong mắt
Đời anh hỡi niềm say mía ngọt mê li
Đời em tạo đời anh như một ngọn lửa gỗ cháy diệu kỳ
Ngọn lửa in lên chân trời vô biên của nhân loại
Nên nhớ không gian đây là Hà Nội và thời gian là khoảng những năm sáu mươi. Hồi ấy không ai tưởng tượng được có lúc thơ văn tiếng Việt lại đi vào diễn tả những cách nghĩ kiểu Vi Thuỳ Linh hay Đỗ Hoàng Diệu bây giờ. Bởi thế việc một bài thơ như Thơ ngợi nàng Đi-tô thế này được dịch ra đã là bạo lắm. Khoảng 1986-1988, khi cùng ở Moskva, nhà nghiên cứu văn học Huỳnh Như Phương lớn lên ở miền nam trước 1975 tỏ ra rất thích thú khi nghe tôi đọc bài này. Anh vốn không nghĩ Xuân Diệu lại viết ra dưới hình thức dịch một bài thơ có nhiều cảm giác về xác thịt như thế. Huỳnh Như Phương phải nhờ tôi chép lại hộ, vì Thơ ngợi nàng Đi - tô in ra trong tập thơ Những nhà thơ da đen, và sau này không mấy khi được nhắc tới.
Cần phải nhắc lại Thơ ngợi nàng Đi-tô, vì ở sáng tác Xuân Diệu cũng có những bài mà người ta thấy có bóng dáng của nó. Trong bài Phượng mười năm đã có hai câu thơ hôi hổi nồng nàn “ Ta cùng mình như cành cây riết quấn – Vương lòng nhau ràng rịt biết bao đời “. Còn đây là bài Đổi trao:
Đêm qua mới thật là đêm
Tình như biển cả nghĩa thêm sông dài
Đôi ta hoá một con người
Bốn trời con mắt một nơi tâm hồn.
Hai ta đã đổi trao hồn
Đổi trao thân vẫn hãy còn đổi trao
Những gì đẹp nhất thanh cao
Chứa chan bốn mắt nghẹn ngào bờ tim
Tìm nhau mãi giữa bầu đêm
Ngôi sao anh với sao em mỉm cười
Đổi trao ánh mắt qua trời
Đôi bông hoa đỏ giữa vời vô biên
Chỗ mới trong chất liệu thơ thì quá rõ, theo chỗ tôi nhớ xưa nay chưa có bài nào của Xuân Diệu nói chuyện chung chạ “ đôi ta hoá một con người “ rõ như bài này ( kể cả thơ tình trước 1945 ). Có điều có vẻ như chỉ sau mấy câu ấy, tác giả đã hoảng, phải có bốn câu cuối làm nhoè đi, đánh trống lảng. Mà lúc đã phải đối phó như thế thì chữ nghĩa sáo mòn cổ lỗ không ai không thấy.
Có thể nói tâm thế tác giả là vừa cũ vừa mới, ông đã đón nhận của thế giới nhiều thứ nhưng rồi lại vẫn bám chắc trên mảnh đất Việt Nam.
Hồi Thơ thơ, chữ em trong thơ Xuân Diệu chỉ để dành cho những người mà nhà thơ yêu. Cô gái bị gián cách bởi một khoảng không mà chàng trai không bao giờ vượt nổi. Từ sau 1945, chữ em này đổi nghĩa, người con gái có vai mới: vai người vợ, người ấy ở ngay đây, hai người chung sống hàng ngày. Anh thương em khi ngủ, Anh đợi em về ăn cơm, Đi đâu anh cũng nhớ em, Đánh đau em -- ngay tên một số bài thơ đã nói lên điều đó. Nhưng rồi người ấy chỉ ở với với Xuân Diệu trong một thời gian ngắn. Cuộc chia tay đã tới, xót xa cho cả hai bên. Xuân Diệu đã làm một số bài thơ ghi lại nỗi đau đớn của mình trong giờ phút chia tay. Bài Chầm chậm đừng quên... sau khi nhắc lại những kỷ niệm cũ, chốt lại ở cái ý: tình yêu như sợi dây trói đã dính vào da thịt cả hai, nay dứt ra, trong sợi dây có dính cả máu và nước mắt.
Muôn sợi ngàn dây đã thắt nhau
Em ơi chầm chậm tháo gì mau
Tháo dây, rứt cả vào da thịt
Anh biết bao giờ mới hết đau
Dây buộc đôi ta lại với đời
Gỡ dây, gỡ cả cuộc đời thôi
- Chớ quên hoa duối, hoa sim dại
Em hỡi! Đừng quên “hoa anh ơi”
Biết tạc đâu ra em của anh có những đoạn trong đó người làm thơ như chết lặng đi trước cuộc vĩnh biệt sắp sửa:
Anh lấy thịt xương đâu chứa đầy mộng ước
Anh lấy gì biến hoá để thành em?
Anh bóp vụn ngày, anh xé nát đêm
Anh vá víu những người trên trái đất
Người ta có thể vô cùng xinh đẹp
Có thể thông minh, có thể rạng ngời
Có thể yêu anh đi nữa - em ơi
Anh không thể kiếm tìm em đâu cả!
Với thơ tình vậy là thơ Xuân Diệu giàu thêm bao sắc thái tình cảm mới, mà phần thơ công dân không có. Ở đó có những phút rợn ngợp, có tiếng nức nở, có sự thất vọng. Ở đó lại có cả nỗi sợ, dù chỉ một nỗi sợ nho nhỏ làm người ta tê tái : Anh có nhà có cửa – Nhưng không vợ không con – Sợ cái bếp không lửa-- Sợ cái cửa không đèn.
Cũng có cái vẻ buồn buồn tội tội là cái cách mà Xuân Diệu công bố thơ tình của mình, cùng là cái cách mà ông đến với bạn đọc. Thời ấy tình cảm cộng đồng lấn át. Người ta bảo nhau sẽ là có lỗi nếu ngồi làm loại thơ đi sâu vào tình cảm cá nhân. Thơ tình không được khuyến khích mà chỉ là một thứ vợ lẽ con thêm cho phần nào hay phần ấy. Vì thế, sự thực là sinh thời tác giả, trừ tập Cầm tay chỉ là một chùm nhỏ in chung với Mũi Cà Mâu (1962), Xuân Diệu không được in một tập thơ tình nào của riêng mình.
Khi mới bước vào nghề văn, mà cũng là hồi đầu chiến tranh, tôi cũng có cái thói quen của nhiều bạn bè thời ấy, là xin phép được đến thăm Xuân Diệu, ở 24 Điện Biên Phủ Hà Nội. Có một dạo đường Điện Biên Phủ còn mang tên Cột Cờ. Không biết ai viết, chỉ thấy cái câu lục bát sau đây được truyền tụng như là lời Xuân Diệu “ Nhà tớ 24 Cột Cờ – Ai thân thì đến, ai lờ thì đi “. Cũng có những hôm chúng tôi được Xuân Diệu ân cần trò chuyện từ lúc tới đến lúc về ; lại cũng có những hôm nhà thơ mải làm việc, chúng tôi ngồi đọc một số sổ tay ghi chép của ông và đọc những bài thơ mới làm. Sổ tay tôi còn ghi như sau : -- Quà : 3/1/65-15/1/65 --Đêm mùng sáu tết 5-6/2/65 --Xuân bên Hồ Tây 5/2/65 -- Mặt em 27/1/65—9/2/65 --Một sớm mai xuân 1/4/65-- Em tặng quạt 18/7/65--Nhớ đôi mắt 13/3/66 vv.vv… Như chỗ tôi chép được,trong số 40 bài làm hai năm 65-66 này, có độ mươi mười lăm bài sẽ được Xuân Diệu chia vào các tập như Tôi giàu đôi mắt, Thanh ca.. nhưng đáng tiếc là số chưa in lại nhiều hơn.
Không biết sinh thời Xuân Diệu có bao giờ nói với các anh Vũ Quần Phương, Anh Ngọc, Hữu Nhuận, Hoàng Cát …không, nhưng đúng là với tôi, có lần ông bảo ông sẽ làm đủ thơ để hình thành nên một từ điển thơ tình, người đọc khi gặp điều gì xúc động trong tình yêu, giở từ điển của ông, tra theo chữ cái đầu tiên, sẽ tìm ra bài thơ mà mình cần.
Đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa nhìn thấy khả năng cái nguyện ước ấy của nhà thơ được thực hiện. Một bên là những cuốn sách của ông được chất đống lại trong một toàn tập sáu tập dày cộp mà văn bản không hề có khảo chứng chú giải tối thiểu. Một bên là những tập thơ mỏng in theo kiểu hàng chợ bán rải rác cho đám bạn đọc nghèo. Xuân Diệu chỉ đang có hai cách ấy để sống mãi với đời.
2005