18/2/2010
Đã in TBKTSG
số tết Canh Dần
Chùm bài Tết Canh Dần (2)
Có những lúc trong đầu óc người ta nẩy sinh ra một
vài ý nghĩ chính mình cũng không ngờ, lại thấy như là
kỳ cục, không hiểu sao nó lại tìm tới mình để rồi
mọc rễ trong đầu, muốn gạt đi cũng không nổi. Thuộc
loại cái “ý nghĩ khi khỉ” đó – chữ của Nguyễn Công
Hoan – xuất hiện nơi đầu óc tôi ngay trong những năm
chiến tranh là một chút khó chịu với chiếc xe đạp.
Hồi đó Hà Nội nghèo lắm, nhìn ra đường chỉ thấy xe
đạp, và cái món tự hành xa này lúc đó cũng còn
ít, mỗi con phố hẹp Hà Nội lưa thưa vài chiếc.
Với một thanh niên mới vào đời như một số bạn bè
tôi lúc đó, việc mua được một chiếc xe là một sự
kiện lớn. Tôi như biết bay trong con ngựa sắt của mình.
Vậy
mà đôi lúc, tự nhiên thấy nó kỳ cục, ý tưởng sao mà
lạ vậy …
Cho đến
lần tôi được đọc truyện ngắn Người trong bao
của nhà văn Nga A.Tchekhov. Trong truyện có cái cảnh hai người
giáo viên, một nam một nữ, mặt đỏ gay, cưỡi xe đạp
phóng qua một ngọn đồi vùng quê, lại còn trò chuyện
với nhau ầm ỹ. Trong con mắt nhân vật chính Belikov, cái
cảnh ấy kỳ quái tới mức không thể tưởng tượng nổi.
Hắn bảo với một người khác:” Cái gì lạ thế?
Hay là tôi lóa mắt? Chẳng lẽ giáo viên trung học và đàn
bà con gái lại có thể cưỡi xe đạp sao tiện? “
À
ra thế, không phải riêng mình mà hóa ra nhiều người đã
thấy buồn cười khi nhìn vào một xã hội mỗi người
nhông nhông một chiếc xe đạp, tôi tự nhủ. Chẳng qua
không còn có cách nào nên đành chịu vậy!
Thì
bây giờ lại đến xe gắn máy !
Vài
chục năm gần đây, cái phương tiện này đã dính vào con
người xứ mình. Sự có mặt của nó gây nên một khí hậu
sống. Có lúc tôi muốn gọi nước mình là “xe máy quốc
“.
Nhìn vào nhiều gia đình Hà Nội thấy nó chình ình ngay
đầu giường. Mở mắt ra là thấy có tiếng xe rú ga trong
ngõ. Mỗi buổi sớm có dịp nhìn lên cầu Chương Dương,
tôi phát ngán vì lớp lớp xe ken đặc và khói xả khét
lẹt.
Và đáng sợ nhất là những nét mặt người
ngồi xe, người nào mặt mũi cũng hằm hằm khó chịu, con
mắt chăm chăm tìm chỗ hở để luồn lách đi tới.
Nhiều lần chứng kiến một đám thanh niên châu đầu xe
máy tán chuyện giữa đường, tôi cảm thấy như các chiến
binh thời xưa mỗi người một ngựa sẵn sàng ra roi phi
thẳng vào vùng chiến địa.
-- Ngồi lên xe tự nhiên là cái ngông nghênh trong
con người mình nổi dậy, muốn vượt lên thật nhanh, muốn
cả thiên hạ phải nhìn theo khâm phục. Khoái lắm chứ
!
Một thanh niên đã giải thích cho tôi như vậy. Nó là tâm
sự của cả mấy thế hệ từ chỗ chỉ có cái xe đạp
kẽo kẹt, nay có trong tay một phương tiện cơ giới sản
xuất từ các nước phát triển. Ta có ảo tưởng là ta
đã trở thành con người hiện đại.
Có biết đâu tình trạng cả triệu chiếc xe cùng rồ
máy bóp còi chen lấn chỉ tố cáo một tình trạng xã hội
cổ lỗ, manh mún, mới dừng lại nửa vời trên đường
hiện đại.
Những ngày Hà Nội mưa rầm rả rích, trời đất tôi tối
mờ mờ, từ sở trở về, nhìn hàng xe ken chặt các con
phố hẹp trong tiếng loa phường văng vẳng, người hay mủi
lòng cảm thấy một không khí thực sự trung cổ.
Thêm một chuyện nữa khiến tôi càng không dứt bỏ nổi
sự khó chịu nói trên. Mấy chuyến du lịch bụi cho tôi
tận mắt thấy bên Trung quốc, sự lưu thông xe gắn máy
ở các thành phố lớn hạn chế đến mức tối thiểu.
Họ bảo loại xe này chỉ làm loạn thành phố. Làm ăn kinh
tế ở họ rộn rã nhưng trong trật tự. Ai cần dùng phương
tiện cơ giới, xin mời đi xe bus. Ai thích riêng tư,
trước khi sắm cái ô tô của mình, hãy cứ bằng lòng với
cái xe đạp. Các đường phố vận hành như một cỗ máy
khổng lồ. Con người hiện ra với vẻ đẹp của sự bình
thản tự tin.
Làm
sao để có ngày dân ta thoát khỏi chiếc xe gắn máy
bây giờ ? Một câu hỏi như thế đến với tôi từ mấy
năm nay và càng ngày càng cảm thấy không có lời giải
đáp.
Thoát khỏi xe máy với nghĩa tổ chức lại mối quan hệ
giữa người với người trong xã hội. Để sự giao lưu
thông thoáng. Mà cũng để mang lại những quân bình trong
tâm lý con người. Mỗi cá nhân sẽ không loay hoay cạnh
tranh với người đi bên cạnh mình. Ta biết phối hợp với
người khác để làm việc. Và cả xã hội sẽ nhịp nhàng
vận động về phía trước .
Vừa nghĩ tới, đã thấy xa xôi lắm, cái sự giải thoát
đó! Nỗi buồn phiền ngán ngẩm với ngày hôm nay lặp đi
lặp lại hóa nhàm, sự sùng bái hiện tại đang là phương
thuốc làm dịu lòng người, ai hơi đâu mà trăn trở về
cái chuỵện vặt là chiếc xe gắn máy?
Trong
lúc nghĩ ngợi lẩn mẩn nhìn sang Trung Hoa, tâm trí tôi
lại còn nẩy ra một câu hỏi khác:
--
Cũng xuất phát từ những thành phố ken đặc xe đạp như
ta, sao họ lại sớm có cái quyết định thông minh như vậy?
May quá
lần này tôi không bí nữa. Câu trả lời cho tôi đã nằm
sẵn trong cuốn 100 danh nhân có
ảnh hưởng đến lịch sử Trung quốc (
Nguyễn Văn Dương dịch, 2002)
phần viết về Triệu Ung.
Ông này là vua một nước nhỏ thời Chiến quốc, chủ trương
nhiều cải cách, trong đó có lối ăn mặc.
Nguyên là trước đó, dân Triệu cũng như dân Hoa
Hạ nói chung sống theo một nhịp thong thả chậm chạp.
Họ mặc lối cổ, áo dài tay, thân rộng thùng thình và
đề lên thành lễ nghi. Ăn mặc như thế để cưỡi ngựa
bắn cung thật hết sức bất tiện. Trong khi đó quân Hồ
-- một dân tộc thiểu số phía bắc—quần chẽn, áo ngắn,
ôm chặt lấy người. Y phục gọn gàng, nên có trở nên
thiện chiến cũng không phải lạ.
Sau khi khảo sát kỹ càng, Triệu Ung buộc từ người lính
ngoài chiến trường tới văn võ bá quan trong triều, phải
thay đổi phục trang ăn mặc theo kiểu người Hồ.
Nên biết là trong trường hợp này, người cải cách chịu
áp lực lớn từ chung quanh. Có người nói “Mặc y phục
phương xa, làm mất nền giáo hóa cổ, làm thay đổi đạo
lý”. Theo họ, phong tục xưa đã vậy, nay không có quyền
thay đổi. Triệu Ung đáp lại: “ Vì lợi ích của đất
nước, bất tất phải theo phép xưa”. Và trong bàn
tay nhào nặn của ông, nước Triệu trở nên một xứ sở
khác.
Mẩu chuyện trên thường trở đi trở lại trong
tâm trí tôi bởi lẽ nó cho thấy sự đồng
bộ của đời sống. Một thời đại thường
được đánh dấu bằng những tư tưởng mà người
ta phát biểu, bằng những phát minh sáng kiến lớn lao. Nhưng
chính những chuyện tưởng là nhỏ nhặt như ăn mặc
đi lại, cùng là nhu cầu thay đổi tìm ra cái tối ưu trong
những phương thức sinh hoạt, … cũng là một thứ chỉ
số nó cho thấy người ta đang ở chặng đường nào của
lịch sử.
Danh
nhân một nước thường được hiểu là các nhà hoạt động
chính trị quân sự, các nhà triết học, nhà tư tưởng,
văn gia, thi gia… Nhưng trong cuốn 100 danh nhân
có ảnh hưởng đến lịch sử
Trung quốc nói ở đây, bên cạnh những cái tên như
Tần Thủy Hoàng, Khang Hy, Càn Long, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lỗ
Tấn… tôi đọc thấy có một vài trường hợp lạ như
Công Thâu Ban, tổ sư nghề mộc và nghề xây dựng,
hoặc Hoàng Đạo Bà là người có công cách tân hệ thống
công cụ dệt vải, nâng cao kỹ thuật dệt.
Và tôi đọc thấy trường hợp Triệu Ung. Các nhà sử học
sau này ghi tên ông vào lịch sử như một người mang
lại biến đổi đánh dấu một thời đại, do đó đáng
gọi là vĩ nhân.
Tôi
không ghi được xuất sứ, nhưng nhớ có một bài
báo đã viết rằng một trong những phát minh lớn nhất
của nhân lọai hiện đại là phát minh ra cái hố xí tự
hoại.
Người
Trung Hoa cũng có lối nghĩ thiết thực tương tự.
Còn
ở ta thì sao? Các đầu óc ưu tú của nước ta thường
chỉ tập trung vào đánh giặc và làm thơ. Từ xưa đến
nay, bao thời đã vậy. Nói một chuyện nhỏ: có lẽ trừ
vài nghề đặc biệt như nghề dệt, còn ở các làng thủ
công Việt Nam, người ta thường bày ngay đồ nghề trên
nền nhà, và ngồi trên những chiếc ghế lè tè sát mặt
đất mà hành nghề. Bao nhiêu nước chảy qua cầu, chưa
thấy ai nghĩ chuyện thay đổi.