NGUỒN Tuần báo Chủ nhật 16-11-1940
Chủ nhật là cơ quan của Tự lực văn đoàn ra đời, thay cho Ngày nay bị nhà cầm quyền Pháp đóng cửa, nhưng cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn.
-
Đọc Hà Nội băm
sáu phố phường, chúng ta đã có dịp cùng với Thạch Lam sống và lắng nghe
nhịp sống của một vùng đô thị thuở thanh bình.
Trước đó, đọc những truyện ngắn như Dưới bóng hoàng lan, Gió lạnh đầu mùa, Nhà mẹ Lê… chúng ta đã thấy nhà văn này mang nặng những tâm tình riêng và có một sự trân trọng riêng với những hồn quê mộc mạc.
Nhưng Thạch Lam –
nhà văn với một vốn liếng văn hoá vững chắc, cây bút có cốt cách tri thức điển
hình – còn đi xa hơn thế. Trong mấy năm cuối đời, ông thường để cho cảm hứng
trang trải tới những khu vực tưởng như trừu tượng hơn, mà lại là nơi cô kết mọi
tình cảm của chúng ta – ông hay nói tới đất nước.
Và con đường riêng
được ông lựa chọn, là nói về nghệ thuật dân tộc.
Trong những dịp tết, ông kể chuyện về những
bức tranh Đông Hồ với “những màu tuy tươi thắm mà cổ xưa, màu cánh sen, màu
xanh lá mạ, là bài ca hát của người và vật truyền nhau trên đồng ruộng”.
Còn như đọc bài
viết dưới đây, chúng ta sẽ được cùng ông trở lại với những tiếng hát dân gian –
những điệu xẩm.
Ông phác ra khung
cảnh ở đó người ta nghe hát. Ông chăm chú đọc ra những điều người ta trông chờ
và gửi gắm qua các điệu hát.
Và nhất là ông tìm
cách ghi lại những cung bậc tình cảm của mọi người – cả người hát lẫn người
nghe – trong cái cảnh diễn dân dã đó.
Nhà văn muốn thử
làm một công việc khó khăn và hấp dẫn là mang lại cho tâm hồn dân tộc một hình
hài, một khuôn khổ. Câu văn ông có chỗ lúng túng, ngập ngừng như chính ông cũng
chưa biết làm sao ghi cho chính xác cái sự thực của tâm tình. Mặc! Ông vẫn cảm
thấy phải nói ra bằng được những nỗi niềm bấy lâu đã nấu nung trong lòng mình.
Cái hồn của đất
nước được Thạch Lam gọi ra bằng những lời lẽ riêng. Ông đã nhuộm cho cảnh vật,
cánh đồng, con đường, cây đa, bến nước…. một sắc thái riêng – sắc thái Thạch
Lam.
Giờ đây, người ta
có thể nghĩ khác về đất nước, so với những điều Thạch Lam đã nghĩ gần sáu chục
năm trước. Nhưng lòng yêu đất nước của ông thì tưởng như mãi mãi làm ta cảm
động.
DỌC ĐƯỜNG
Một con đường
dài dưới sáng trăng. Hai bên dãy nhà lá thấp, mái tranh cũ như lẩn vào màu
trời. Một cây đa lớn trong bóng tối thấp thoáng ánh trăng của vài chiếc bình
vôi.
Đấy là một phố
chợ nhỏ miền hạ du, một cảnh rất quen mắt ở chốn bùn lầy nước đọng. Trong các
căn nhà lụp xụp và tối tăm ấy, sống những gia đình nho nhỏ Annam, những người nghèo hèn mà
đời kiếm ăn thật là eo hẹp và chật vật. Những đêm sáng trăng này, họ vui vẻ.
Tâm hồn giản dị cảu họ chịu ảnh hưởng của thời tiết một cách mật thiết, không
tự biết. Cái vui của họ dễ đến, nhưng mà cũng dễ đi – và tiếng cười của họ
có khi nổi lên vô tư lự.
Họ xúm quanh
lại ngồi nghe một đám xẩm già, đánh cây đàn bầu gỗ mọt, và ca hát những bài hát
tự nghìn xưa vẫn lưu truyền trong dân gian, ai cũng thuộc nhớ, mà lần nào họ
cũng vẫn muốn nghe. Những bài hát thương tiếc cái tình tuyệt vọng của anh chài
lưới Trương Chi, ngậm ngùi cái tình bằng hữu của Lưu Bình, Dương Lễ, hay tán
thưởng lòng can đảm của Thạch Sanh. Muốn cảm động được đám người mộc mạc ấy,
những tính tình kia cũng phải thu về giản dị và cổ sơ – những tính tình mới có
của người bước vào vòng lễ nghĩa, của những tâm hồn chất phác như những tâm hồn
vẫn giữ chất phác kia.
Qua cảm động
đến vui cười, chế nhạo và giễu cợt. Những bài vè quê mùa, những câu đố hóm
hỉnh, những bài ca hơi chút đĩ thoã và trai lơ. Đánh tam cúc, Đi hái chè,
Lấy chồng già, chồng trẻ… bao nhiêu tiếng cười thẳng thắn và hồn nhiên nổi
lên khuyến khích và điểm vị cho câu hát. Và cái tiếng cười cợt trong câu hát
ấy, hơi đơn sơ và thành thật, láu lỉnh như nháy mắt với người bên cạnh, giễu
cợt có khi cay chua nhưng mà không ác ý, có đôi chút triết lý rộng lượng với
những hèn yếu của người đời – đó là tiếng cười cợt Annam, của luỹ tre, của
ruộng lúa. Lên đến cao nguyên, vùng rừng vùng núi, tiếng cười câu hát ấy đã
thêm một chút man mác, rộng rãi nhớ thương, thêm một chút buồn xa xôi và tưởng
nhớ.
*
Ai là người cúi
xuống góp nhặt và thưởng thức những bông hoa trong nội cỏ đất nhà ấy, giữ lấy
mùi hương thơm mát mẻ và kín đáo, từ xưa vẫn thấm nhuần cảnh vật quanh ta?
*
Một chuyến đò
ngang, một xó chợ, một đầu đường… chỗ nào có dăm ba người nghe là có đám xẩm
xoan lên tiếng. (Dễ thử đến có khi chẳng có ai nghe nữa, mà một ông cụ xẩm cũng
vẫn gẩy đàn và ca hát, đôi mắt đưa lên như cố hình dung những bóng người tưởng
tượng, và lắng tai nghe chờ đợi không biết đến bao giờ một tiếng đồng trên chậu
thau..). Cái giọng hát xẩm thật là một giọng hát đặc Annam. Hay là tôi tưởng
thế, bởi vì mỗi lần nghe cái giọng hát buồn buồn, tầm thường và quê mùa ấy, là
mỗi lần tôi thấy như đè nén, quằn quại trên tâm hồn tôi, cái tâm hồn hèn mọn và
nhẫn nại của giống nòi – của cả đồng ruộng nghèo nàn và bạc bẽo phủ sương chiều. Tôi không
muốn một bài ca hùng hồn, hăng hái, đầy những công việc xuất thế, anh hùng, bởi
vì không phải thật là như thế. Tôi nhận ra cái hèn mọn, nghèo nàn kia, nhận một
sự buồn mà người ta phải chịu vậy, nhưng mà tôi yêu mến, thiết tha cái linh hồn
thật của đất nước ấy, là linh hồn của tôi, có những ràng buộc chặt chẽ, những
rung động thẳng ngay đến bên trong. Cái giọng hát quê mùa, không có gì là cao
quý nhẫn nại, không có gì là siêu việt, là cái giọng hát đã làm cảm động những
người cùng giống với tôi, những người sống chật vật, khó khăn, nhưng mà vẫn vui
vẻ, vẫn tin trời, không ghen ghét mà cũng chẳng thù hằn ai. Trên manh chiếu
rách giải ngay mặt đất đó, đã diễn ra bao nhiêu lần cái cảnh sinh hoạt của
người bình dân Annam. Tiếng đàn, nhị một điệu nhắc đi nhắc lại, quen
thuộc và êm ả, như trên cánh đồng lúa, ngày lại ngày, năm rồi qua năm khác, đem
lại cũng chừng ấy công việc, chừng ấy vui buồn.
Đường, chợ
chúng ta sẽ vắng lạnh, nếu không còn giọng ca hát nữa.
*
Làn khói rắc
buổi chiều ở đầu làng, vì không có gió đưa, nên là là sát mặt đất để lẩn vào
dải sương mù bắt đầu rơi xuống cánh đồng. Tiếng ếch nhái xanh rờn trên ruộng
mạ. Và bóng người dãi qua cái quán gạch giữa cánh đồng, cái quán gạch giờ này
trơ vơ và lạnh lẽo.
Bạn có nhận
thấy cứ đến buổi chiều sương phủ, những làng mạc xa xa hình như thu bé lại,
thấp xuống, thấp xuống để lẫn với đất ruộng, còn cánh đồng mênh mang bóng tối
thì từ từ dâng lên ngang với chân trời? Giờ khắc ấy, ở đâu ra mà khắp cả, trên
dưới và khắp bốn phương, hình như tiết ra ở cảnh vật, ở cây cỏ, ở ruộng nương,
một nỗi buồn thấm thía, không đâu, một nỗi buồn vừa chán nản vừa chua xót,
khiến người ta bỗng dưng thấy lạnh lẽo, thấy lẻ loi? Tranh giành, chiến đấu bấy
giờ thấy vô ích và quá sức yếu ớt của mình. Phải dễ dãi, phải thân mật, để được
gần gụi người khác cho thêm ấm cúng.
Đó là cái mạch
buồn riêng của đất nước nhà, âm thầm như dòng suối dưới nội cỏ, cái mạch buồn
hiu hắt chảy trong sông, hay xa xôi theo dải đê đến tận chân trời. Cảnh của ta
tuy nhiều nơi thật là đơn sơ, bằng phẳng, nhưng có vẻ riêng biệt cám dỗ chúng
ta. Chúng ta tha thiết mến yêu có lẽ vì cảnh vật như một tấm gương, và chúng ta
thấy chiếu vào trong đó hình ảnh và tâm hồn của chính chúng ta.
Chúng ta nghèo
nàn, nhưng chúng ta biết sự nghèo nàn ấy.
*
Dọc đường cái
quan, ngày xưa, còn có chiếc cầu dịp đá, và bóng đưa của những cái cáng xanh.
Những ngày rực rỡ, còn có võng lọng tưng bừng của một ông nghè về vinh quy, với
cô gái quê má lúm răng đen, gọn mình trong chiếc võng, âu yếm nhìn ông tân khoa,
chồng ta, và do công ta thức khuya dậy sớm hái dâu dệt lụa để chàng ăn học.
Bây giờ những
cái đó đã mất rồi, mà trên đường, chúng ta chưa có cái gì khác thay vào. Chúng
ta đi, hai bàn tay trắng.