Đăng lần đầu trên Tia
Sáng
Bản đưa dưới đây dẫn theo nguồn
https://nghiencuuquocte.org/tag/vu-duc-liem/
----------------------
Dù năm 1805, địa vị kinh đô của Thăng Long bị hạ cấp, nhưng đó chỉ là sự khởi đầu của một cuộc hành trình gian nan thời hiện đại giữa Huế-Hà Nội- Sài Gòn để tìm kiếm bản sắc của một Việt Nam hiện đại. Giữa những biến loạn đó, dù kinh đô có đi đâu chăng nữa thì rồng vẫn ở lại với người Việt, ở trên cõi Việt.
Mùa đông năm
1802, bốn tháng sau khi nước Việt Nam được thống nhất và lần đầu tiên lãnh thổ
xuất hiện với hình dạng chữ S, nhà vua mới Gia Long phái một sứ đoàn đi Bắc
Kinh để cầu phong.
Giống như thách
thức đè nặng phái đoàn của Phùng Khắc Khoan hơn 200 năm trước để lấy lại quyền
triều cống cho vua Lê, các sứ thần này có sứ mệnh làm rõ họ Nguyễn từ đâu tới
và tại sao họ chính danh để cai trị Việt Nam. Nguyễn Phúc Ánh có lẽ không ngờ
tới một trong các thử thách cam go với sứ đoàn tới từ chính niên hiệu của ông.
Trong chữ “Gia Long” 嘉隆, “Gia” trùng
với niên
hiệu hoàng
đế Gia Khánh 嘉慶
nhà Thanh, còn Long trùng với
niên hiệu
của phụ
thân Gia Khánh: Càn
Long 乾隆.
Khỏi nói, sứ đoàn chắc đã toát mồ
hôi. Nhưng vị phó sứ Nguyễn Gia Cát, tiến sĩ nhà Lê người Bắc Ninh đã lên
tiếng. Ông lí giải rằng niên hiệu đó xuất phát từ chỗ Nguyễn Phúc Ánh thống
nhất lãnh thổ mới từ Gia Định 嘉定 tới
Thăng Long 昇龍 .
Câu chuyện
tương truyền này
chỉ được
chép lại
trong các tập
địa chí
chứ không
có trong chính sử
vì thế
chúng ta vẫn chưa
có thêm
sự kiểm
chứng nào
(Bắc Ninh toàn tỉnh địa dư chí). Nhưng nếu
điều đó xảy ra, Nguyễn Gia Cát rõ ràng đã có một ‘pha cứu thua’ ngoạn mục cho
triều đại mới. Dù tới năm 1805, Gia Long mới đổi từ Thăng Long 昇龍 thành
Thăng Long昇隆 (Từ
“Long”
[rồng] sang “Long”
[thịnh vượng],
nhưng Bắc
Kinh đã không
chất vấn
thêm một lần nào nữa.1 Sau
sự kiện này, Gia Long được tấn phong Việt Nam Quốc Vương,
và “Việt Nam” cũng “chính thức” bắt đầu.
Như thế, năm
1805, Thăng Long đã mất “rồng” và chỉ còn ‘hưng thịnh’.
Gia Long không
giải thích tại sao đổi từ “rồng” sang “hưng thịnh”. Chúng ta chỉ biết rằng rồng
đã không còn ở chỗ cũ và địa vị kinh đô của Thăng Long bị hạ cấp. Sách Thực lục chép ngắn gọn: Đổi thành Thăng
Long 昇龍 làm thành
Thăng Long 昇隆, phủ
Phụng Thiên
làm phủ
Hoài Đức,
huyện Quảng
Đức làm
huyện Vĩnh
Thuận (Đệ
nhất kỷ, 27: 7b).
Đế đô cũ sẽ trở
thành trung tâm của hệ thống hành chính cấp vùng mới gọi là Bắc Thành được lập
năm 1802 và do một viên tổng trấn cai quản. Tới năm 1831, hệ thống hành chính
này bị Minh Mệnh xóa bỏ và Bắc Thành được chia làm 11 tỉnh. Thăng Long giờ trở
thành một phần của tỉnh Hà Nội mà phạm vi hành chính bao gồm cả một phần Hà Tây
(cũ), Hà Nam và Nam Định. Về mặt tổ chức hành chính, trung tâm của Thăng Long
(Lê-Trịnh) chủ yếu tập trung ở hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương (thuộc phủ
Hoài Đức), mà quyền quản lí hành chính thuộc về viên tri huyện Thọ Xương.
Vậy rồng đi về đâu?
Một năm sau khi
rồng biến mất ở Thăng Long, nó xuất hiện ở Huế: trong lễ lên ngôi hoàng đế của
Gia Long. Nhà vua mất 4 năm chuẩn bị trước khi quyết định chính thức xóa bỏ nhà
Lê và xác lập triều đại của dòng họ mình như là người cai trị của nước Việt Nam
mới.
Một trong những
cách thức để làm dân chúng quên đi vua cũ chính là hạ cấp vùng đất mà họ Lê cai
trị, làm cho nó bớt ‘linh thiêng’, mất đi tính chất ‘thiên mệnh’ của đế đô cũ.
Thậm chí triều Nguyễn còn tháo dỡ nhà cửa, thành quách cũ, thu hẹp lại quy mô
để biến nó trở thành một trấn thành ‘thông thường’.
Gia Long tiến
hành “rà soát”, “quy hoạch” lại hệ thống thần linh trong cả nước (đặc biệt nhắm
vào vùng châu thổ phía Bắc), xây dựng quy trình “bổ nhiệm” bách thần mới. Tất
cả các đền thờ vua Lê chẳng hạn, bây giờ dồn lại một nơi duy nhất, được dựng ở
Kiều Đại, cách thành phố Thanh Hóa 2 km về phía Nam.
Thăng Long bị hạ cấp
Chúng ta sẽ xem
sự hạ cấp đó ảnh hưởng thế nào tới số phận một đô thị. Sự phân tích sẽ cho thấy
tính chất dễ bị tổn thương của các đô thị ở Việt Nam vốn gắn liền với một trung
tâm chính trị. Sự hưng vong của trung tâm chính trị đó thường là yếu tố quyết
định tới sinh mệnh đô thị. Điều này giúp bóc tách phần ‘đô’ và phần ‘thị’ trong
một cấu trúc thành thị Việt Nam và khuynh hướng phát triển của nó khi hạ cấp
của yếu tố ‘đô’. Liệu phần ‘thị’ có thể tiếp tục sống và sống khỏe?
Đầu tiên triều
Nguyễn đã tái cấu trúc lại khu vực hành chính và thành quách. Năm 1804, hoàng
thành cũ bị phá và năm sau đó một thành chu vi nhỏ hơn (5 km), tường bị hạ
thấp, theo kiến trúc Vauban, với 5 cửa: Đông Nam, cửa Tây Nam, cửa Đông, cửa
Tây và cửa Bắc), mỗi cửa đều dựng bia để ghi. So với thành Huế có tường bao dài
khoảng 10.950 m và 10 cửa.
Thăng Long cất
đi vai trò là trung tâm giáo dục hàng đầu khi Văn miếu và Quốc tử giám mới được
xây dựng ở Huế. Trung tâm giáo dục quan trọng của vùng bây giờ là học đường phủ
Hoài Đức và Tràng Thi được xây dựng trên khu vực nay là Thư viện Quốc gia.
Không dừng lại
ở đó, nhà vua thứ hai triều Nguyễn là Minh Mệnh, nhân chuyến ra Bắc nhận thụ
phong, tuyên bố cấm con cháu không được rời đô ra Thăng Long vào năm 1821:
“Nếu nghìn trăm năm sau,
sự thế có khác đi thì làm thế nào? Bắc Thành không phải
nơi hiểm đủ trông cậy được, quyết không thể dời đô đến được. Trẫm muốn dựng kế
lâu dài cho con cháu, đêm ngày nghĩ ngợi, chưa từng chốc lát lãng quên” (Thực
lục).
Bản
đồ các làng có dân lưu tán ở vùng châu thổ năm 1807 (Yumio Sakurai 1997).
Lúc này, vai trò chính trị quan
trọng nhất của Thăng Long là trung tâm của đơn vị hành chính cấp thành, nơi tất
cả văn thư liên lạc và các quyết định từ các trấn phải được Tổng trấn Bắc thành
quyết định trước khi trình lên Huế. Thứ hai, là nơi vua nhà Nguyễn nhận thụ
phong từ hoàng đế Trung Hoa lúc mới lên ngôi. Tuy nhiên từ thời Tự Đức, sứ nhà
Thanh sẽ vào Huế để tấn phong cho vua Việt Nam thay vì vua Nguyễn ra Hà Nội.
Như vậy, từ
1802 đến 1848, Hà Nội đã mất đi các chức năng hành chính quan trọng nhất của nó
với tư cách là một trung tâm chính trị. Điều này sẽ tác động tới kinh thế và tổ
chức đô thị ra sao?
Khi Lê Hữu Trác
ra Bắc năm 1782, vị thầy thuốc thấy “quán rượu, hàng cơm liên tiếp nối nhau”.
Một thế kỷ trước, cũng tại nơi đó, thương nhân Samuel Baron (1683) mô tả:
“Vào các phiên chợ chính
ngày mồng một và ngày rằm âm lịch hàng tháng, người dân cùng với hàng hóa đổ về
đây nhiều không xuể. Những con phố ngày thường vốn rộng rãi, quang đãng, giờ
đây trở nên chặt chội đến nỗi chỉ nhích được 100 bước trong nửa tiếng đồng hồ
cũng là tốt lắm rồi” (Nguyễn Thừa Hỷ, Văn hóa Việt Nam truyền thống, 124).
Tuy nhiên một
người Pháp trong đạo quân viễn chinh cuối thế kỷ XIX đã nhìn thấy một Hà Nội
khác. Đây là mô tả của ông trong những năm 1882-1893: “Đường phố của thành phố ở trong tình trạng tồi tệ, những phố
phường rất hẹp … dọc theo hai bên đường, thực sự là những vũng nước đọng hôi
thối, không có lối thoát… thậm chí khách bộ hành có lúc phải lội bì bõm trong
lớp bùn sâu có chỗ tới 1 bộ” (Nguyễn Thừa Hỷ, Thăng Long-Hà Nội dưới thời Nguyễn,
1999).
Thực tế cấu
trúc địa-kinh tế của Hà Nội đã chuyển dịch mạnh mẽ chỉ trong vòng 3-4 thập kỷ,
nơi mà các yếu tố ăn theo chính trị nhanh chóng lụi tàn, nhường chỗ cho các
khuynh hướng đô thị mở rộng theo dòng thương mại.
Khu vực cư ngụ
của vua Lê chúa Trịnh cũ chịu thiệt hại đầu tiên. Sự suy sụp của khu vực xung
quanh Hồ Gươm là ví dụ cho thấy sự biến mất của thành đã làm sụp đổ thị như thế
nào. Khu vực này vốn được bao bọc bởi các cung điện và dinh thự của vua Lê,
chúa Trịnh, gắn liền với nơi đồn trú và tập dượt của hạm đội thủy quân Bắc Hà.
Sự thịnh vượng của nó vốn được thúc đẩy nhờ vào cung vua, phủ chúa, quan lại,
cấm binh… nay chứng kiến quá trình nông thôn hóa trở lại. Sang thế kỷ XIX, hồ
đã bị thu hẹp đáng kể, biến thành nơi chứa rác, và nơi các gia đình xung quanh
ra rửa bát (Charles Hocquard, Une campagne au Tonkin, 1892; Paul Bourde, De Paris au Tonkin, 1885).
Đúng là:
Tạo hóa gây chi cuộc hý
trường
Đến nay thấm thoắt mấy
tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu
thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch
dương.
(Bà huyện Thanh
Quan)
Sử gia Nguyễn
Thừa Hỷ (1999) cũng chỉ ra quá trình nông thôn hóa tại hai khu vực từng là
trung tâm chính của Hà Nội. Một số phường thôn thời Lê có khả năng ở khu phía
Tây trong hoàng thành bị nông thôn hóa trở lại, trở thành các trại, thôn của
Tổng Nội. Tuy nhiên các khu vực phía Nam của Thăng Long cũ chịu ảnh hưởng nặng
nề hơn so với việc mất mát dân cư quy mô lớn, nơi mà Thực lục nói rằng có những
thôn chỉ còn ba bốn suất đinh. Một nhà thơ đương thời là Cao Bá Quát thì mô tả
tình trạng dân lưu tán ở phường Phúc Lâm (quận
Hai Bà Trưng ngày nay): “…Mười phần chỉ còn một hai/ Nào lính, nào phu, nỗi khổ chưa
qua/ Con bé, cháu nghèo đều bỏ đi hết”.
Một phần của sự
chuyển dịch và mất mát dân cư này có thể chịu ảnh hưởng bởi khung cảnh khu vực
vùng châu thổ đầu thế kỷ XIX. Cuộc nổi loạn của Phan Bá Vành chẳng hạn, tạo ra
một vành đai bạo lực xung quanh Thăng Long. Dịch bệnh và các vụ vỡ đê thường
xuyên trong khoảng 1800-1860 cũng là xúc tác của sự dịch chuyển dân cư này.
Sau khi mất đi
phần ‘thành’, thị trở thành động lực duy nhất gánh vác sức sống cho Hà Nội.
Hoạt động kinh tế duy nhất được nhà nước bảo trợ chính là Cục Bảo Tuyền (nơi
đúc tiền đồng và kẽm) cho triều đình đặt tại khu vực Tràng Tiền mà sau này
người Pháp sẽ thúc đẩy vị thế thương mại của khu phố này.
Sức sống của Hà
Nội đến từ kinh tế tư nhân thương mại và thủ công nghiệp tại khu vực được biết
tới như là 36 phố phường. Dù suy giảm, khu vực này vẫn là đầu mối kinh tế của
một vùng châu thổ đông đúc. Thứ hai là sự gia tăng thương mại của mạng lưới
thương nhân người Hoa gắn kết với thị trường Trung Quốc. Hệ quả của nó là các
khu phố này trở nên đông đúc, sông Tô Lịch đóng vai trò quan trọng trong mạng
lưới giao thương giữa các khu vực, và sự mở rộng của cộng đồng người Hoa
tại Hà Nội. Thay vì hướng liên kết cũ tới khu vực hồ Gươm đã bị thu hẹp và nông
nghiệp hóa, khu 36 phố phường giờ đây mở ra bờ sông Hồng, thúc đẩy các mạng
lưới giao lưu kinh tế với vùng châu thổ và với bên ngoài…. Những khuynh hướng đô
thị hóa và chiều hướng phát triển này rất quan trọng vì chúng là đêm trước khi
người Pháp áp dụng các quy hoạch phương Tây vào một cấu trúc thị Á châu. Nhiều
vấn đề của tổ chức và quy hoạch đô thị Hà Nội có thể tìm thấy câu trả lời từ
trong lịch sử, nhờ cách thức cha ông trong quá khứ vận hành thành thị.
Cuối cùng, sự ‘hạ cấp’ của Hà Nội là một ví dụ nhỏ sống động cho
thấy chuyển dịch cấu trúc địa chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, đã tác
động thế nào tới trung tâm chính trị vùng châu thổ sông Hồng. Từ “Thăng Long”
đến “Hà Nội” chính là sự khai mở của một kỷ nguyên mới từ không gian “Đại Việt”
tới không gian “Việt Nam”. Tuy nhiên 1802 không phải là điểm kết thúc. Nó chỉ
là sự khởi đầu của một cuộc hành trình gian nan thời hiện đại giữa Huế-Hà Nội-
Sài Gòn để tìm kiếm bản sắc của một Việt Nam hiện đại. Giữa những biến loạn đó,
dù kinh đô có đi đâu chăng nữa thì rồng vẫn ở lại với người Việt, ở trên cõi
Việt. □
———-
Chú thích:
1 Thanh
Sử Cảo, quyển 527 (Thuộc quốc II) chép rằng Nguyễn Phúc Ánh lấy được nước chủ
yếu nhờ quân Gia Định, Vĩnh Long nên mới lấy niên hiệu Gia Long. Điều này có
chút nhầm lẫn vì tới thời Minh Mệnh, trấn Vĩnh Thanh mới đổi thành Vĩnh Long.
Mới thấy số phận của ‘rồng’ lao đao tới mức nào.
2 Changed
in 1805, DNTL, I, 27: 7b.