Nguồn tiếng Trung: 越南能否彻底“去中国化”? 2017-05-10
Dịch giả cũng cho biết bài viết này không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc giấu tên.
Nguồn tiếng Việt
http://nghiencuuquocte.org/2019/02/15/viet-nam-co-the-hoan-toan-thoat-trung-duoc-khong/
Khi đưa vào đây, tôi đã lược bỏ một số đoạn không cần thiết.
---------
Sau sáu năm, tôi lại đến Việt Nam lần nữa; chuyến đi này nhằm
mục đích chính là tìm hiểu tình hình tiến trình “Thoát Trung” của Việt Nam thời
cận đại và hiện đại cũng như các ảnh hưởng của tiến trình đó.
Cho dù chỉ là một du khách bình thường đi tham quan kiểu cưỡi
ngựa xem hoa thì bạn cũng sẽ dễ dàng cảm nhận được văn hóa Trung Hoa có ảnh
hưởng sâu sắc như thế nào đối với Việt Nam: những biển chữ Hán ngoài cổng các
kiến trúc cổ trên đường phố, những đôi câu đối nghiêm chỉnh trên cột các đền
chùa, môn cờ tướng Trung Quốc là trò giải trí được nhiều người ưa thích nhất ở
các công viên, chữ Song Hỷ màu hồng trong các lễ cưới….
Thế nhưng sau khi đi sâu quan sát thì bạn sẽ phát hiện thấy chỗ
nào cũng có dấu tích của tiến trình “Thoát Trung”: một số bảng biển chữ Hán ở
các đền chùa bị thay bằng các bảng biển viết chữ Quốc ngữ La tinh hóa, thậm chí
cả đến câu đối cũng đều đã “La tinh hóa” như vậy, những chữ La tinh của đôi câu
đối viết dọc từ trên xuống dưới đem lại cho người ta một cảm giác cười ra nước
mắt.
Trong các viện bảo tàng,
những phần trưng bày về kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ hầu như không thấy nói
gì về viện trợ của Trung Quốc; các cửa hiệu trên đường phố đều treo biển “Hàng
Việt Nam”, “Hàng Nhật”, “Hàng Hàn Quốc” “Hàng Mỹ” thậm chỉ “Hàng Canada” mà hầu
như chẳng thấy biển hiệu “Hàng Trung Quốc”, cho dù Trung Quốc là nước nhập khẩu
hàng hóa lớn nhất vào Việt Nam.
Chưa thấy nhiều tác phẩm nghiên cứu có hệ thống về vấn đề Việt
Nam “Thoát Trung”. Trong mấy tài liệu tôi sưu tầm được, các tác giả chưa nhất
trí về nguồn gốc và tình hình phát triển của tiến trình Việt Nam “Thoát Trung”,
việc phân tích động cơ “Thoát Trung” cũng khá đơn giản, và đó lại chính là nguyên
nhân thúc đẩy tôi đến Việt Nam tìm hiểu.
“LA TINH HÓA” CHỮ VIẾT CỦA VIỆT NAM
Từ thế kỷ 19 thực dân Pháp ra sức đẩy mạnh sử dụng chữ Việt Nam
La tinh hóa (chữ Quốc ngữ), dần dần trở thành chữ viết chính thức của xứ Đông
Dương thuộc Pháp. Người Pháp làm thế nhằm mục đích chính là để tầng lớp tinh
hoa người Việt thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, cắt đứt mối liên
hệ văn hóa giữa Việt Nam với Trung Quốc. Cho nên một số học giả coi việc La
tinh hóa văn tự Việt Nam tiến hành trong thời kỳ Pháp đô hộ nước này là sự khởi
đầu quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam.
Thế nhưng ngay cả trong thời kỳ Pháp thuộc thì chữ Hán và chữ
Nôm (một loại chữ Việt Nam hóa dựa trên nền tảng chữ Hán) cũng không hoàn toàn
biến mất trong đời sống người Việt. Trên rất nhiều lĩnh vực, chữ Hán vẫn dùng
song song với chữ Quốc ngữ.
Sau khi thành lập chính quyền Bắc Việt Nam thì chữ Hán hoàn toàn
bị thay thế, trở thành vật hy sinh của “Phong trào xóa nạn mù chữ” do
nhà nước triển khai.
Đối ngoại, chính phủ Việt Nam tuyên bố sở dĩ phải đẩy mạnh dạy
chữ Quốc ngữ chứ không dạy chữ Hán, đó là do chữ Quốc ngữ La tinh hóa đơn giản
dễ học.
TỰ THUẬT CỦA
BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUỐC GIA VIỆT NAM
Ở đây, phần lớn các văn bản thuyết minh và lời thuyết minh vật
trưng bày đều dùng tiếng Việt và tiếng Anh; một số ít “nội dung nhạy cảm” thì
chỉ giới thiệu bằng tiếng Việt.
Mặc dầu Trung văn không
được dùng ở đây nhưng rất nhiều văn bản lịch sử và hiện vật lịch sử lại đều thể
hiện bằng chữ Hán, nhất là phần lịch sử cổ đại.
Theo cách nói của giới sử học Trung Quốc thì lịch sử Việt Nam có
thể sơ lược chia làm 5 thời kỳ:
1) Thời tiền sử và các truyền thuyết;
2) Thời kỳ Bắc thuộc, tức thời kỳ Việt Nam là một bộ phận của
Trung Quốc, bắt đầu từ khi tướng nhà Tần là Triệu Đà bình định Bách Việt cho
tới năm 938 khi Ngô Quyền của Việt Nam đánh bại quân Nam Hán, lập triều đại nhà
Ngô độc lập;
3) Thời kỳ quốc gia độc
lập, từ năm 938 đến năm 1884 khi nước Pháp biến Việt Nam thành thuộc địa; suốt
thời kỳ đó, Việt Nam là nước phiên thuộc của nhiều vương triều Trung Quốc,
trong đó có 20 năm Việt Nam bị nhà Minh thu hồi thành thuộc quốc;
4) Thời kỳ là thuộc địa của Pháp;
5) Thời kỳ độc lập sau Thế chiến II.
Các ghi chép lịch sử thường có nội dung khác nhau bởi lẽ chủ thể
viết sử khác nhau, điều đó không khó hiểu.
Trong Viện Bảo tàng Lịch
sử quốc gia, ở phần thời kỳ tiền sử, văn hóa Đông Sơn được giới thiệu nhiều
nhất, coi là tiêu biểu của thời này, nhưng ở thời kỳ thứ hai thì nền văn hóa đó
lại bị lược bỏ.
Trên thực tế, phần giới thiệu duy nhất về thời kỳ thứ hai là một
bảng biểu “Chống xâm lược” xuyên suốt thời kỳ này, toàn bộ đều viết bằng chữ
Quốc ngữ.
Thế nhưng khi đọc kỹ bảng biểu đó người ta có thể thấy một số
“nội dung nhạy cảm”: chống Đông Hán, chống Lưỡng Tấn, chống Nam Triều, chống
quân nhà Đường v.v…
Theo ghi chép của lịch sử Trung Quốc thì các nội dung này đều
được định nghĩa là những sự kiện lịch sử “dân địa phương nổi dậy [dân biến]”
hoặc “làm loạn [tác loạn]”, còn tại bảo tàng này thì tất thẩy đều được coi là
nghĩa cử “chống ngoại xâm”.
Bảo tàng Lịch sử quốc gia dành cho thời kỳ thứ ba phần giới
thiệu rất chi tiết nhưng sợi chỉ xuyên suốt phần này thì không thay đổi, vẫn là
chủ đề “Chống xâm lược phương Bắc” như chống quân Tống, chống quân
Nguyên, chống quân Minh, chống quân Thanh… song le lại không một chữ nào nói
đến mối quan hệ giữa chính quốc [tông chủ, tức Trung Quốc] với nước phiên thuộc
[tức Việt Nam].
Trong phần này có một đoạn khá thú vị nói về thời kỳ 20 năm Minh
thuộc:
Theo ghi chép trong “Đại Việt Sử ký toàn thư”, thì những
năm đầu nhà Minh, trong triều đình nhà Trần ở Việt Nam có xảy ra sự kiện
một người họ Hồ [Hồ Quý Ly?] thuộc bên ngoại của nhà vua định
cướp ngôi, nhà Minh phái quân đội Nam tiến sang Việt Nam để lập lại sự công
bằng về đạo lý;
sau khi diệt xong Hồ, các quan lại và người cao tuổi bản địa cho
biết hoàng tộc nhà Trần đã bị tuyệt diệt không còn người nối dõi, yêu cầu nhà
Minh thu hồi quốc hiệu An Nam Quốc (Việt Nam), khôi phục chế
độ đãi ngộ “quận huyện” của vương triều Trung nguyên trước kia.
TỰ KHOE LÀ
“CHÍNH THỐNG TRUNG HOA”
Cho dù phần tự thuật trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tràn đầy
tinh thần “Chống phương Bắc” nhưng từ quá trình lịch sử Việt Nam được thể hiện
trong mọi trưng bày ở đây rất khó có thể nói các đời vương triều Việt Nam có
một quá trình chủ động “Thoát Trung”.
Trên thực tế, vào các thời Nguyên Mông, Mãn Thanh làm chủ vùng
Trung nguyên Trung Quốc, các văn bản thư tịch của vương triều Việt Nam từng [có
ý khinh bỉ] gọi hai kẻ thống trị phương Bắc ấy là “Mông Thát”, “Mãn
Di”, mà tự khoe mình là “Chính thống Trung Hoa”.
Trong bảo tàng có một bản chiếu thư bằng gấm do hoàng đế triều
nhà Nguyễn sắc phong một vị tướng chống quân Thanh, trên tờ chiếu đó thậm chí
có mấy chữ Hán: “Kiến công Vạn lý tráng Trường thành”.
Vào cuối thời đại phong kiến, Việt Nam ra sức mở rộng lãnh thổ,
dần dần chiếm lĩnh một vùng đất rộng ở châu thổ sông Mekong vốn thuộc
Campuchia. Trong quá trình cưỡng chế đồng hóa người Cao Miên, Việt Nam càng
cưỡng bức người “Cao man” (người Cao Miên) mặc Hán phục, học chữ Hán.
Sách sử chính thức của
triều Nguyễn “Đại Nam thực lục” chép: “… Tai nghe nhiều thi
quen, mắt thấy nhiều thì thuộc, cứ thế [người Miên] dần dà hòa
nhập với phong tục người Hán; nếu lại có thêm sự giáo hóa của chính quyền, dùng
văn hóa Hoa Hạ để biến đổi các dân tộc man di, xem ra sau vài chục năm thì có
thể làm cho họ chẳng khác gì người Hán [Hán dân].”
Ở đây triều Nguyễn tự
xưng là “Hán”, “Hạ” [tên cũ của Trung Quốc], “Hán dân”, khoe mình là dòng chính
thống [đích hệ] của văn hóa Trung Hoa.
Nhà văn chuyên mục lịch sử Quách Hoa Mân từng viết trên mục “Tư
gia lịch sử” mạng Bloomberg về sự cai trị đất nước của vương
triều phong kiến nhà Nguyễn như sau: “Nước Đại Việt dù ở xa trung tâm thống
trị của vương triều Trung nguyên nhưng lại toàn lực bắt chước và cấy ghép các
chế độ văn hóa, kinh tế, chính trị của Trung Quốc. Triều Lý (1010-1225) chia
chế độ quan lại làm hai ban văn võ, mỗi ban có cửu phẩm; các địa phương có Tri
phủ, Phán phủ, Tri châu; trung ương còn có các trọng chức như Thái sư, Thái
phó, Thái úy, Thái bảo. Thời kỳ đầu triều Lý đã xây dựng Văn miếu để thờ Khổng
Tử và Chu Công, bắt chước chế độ khoa cử nhà Tống Đường…”
Phương thức sao chép các chế độ của Trung Quốc kéo dài suốt cho
tới đêm trước ngày Việt Nam rơi vào vòng thuộc địa của Pháp.
Chịu sự cai trị trực thuộc của Trung Quốc trong hơn 1.000 năm
cộng thêm hơn 900 năm bê nguyên xi mọi thứ của Trung Quốc về dùng, Việt Nam
chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa quá ư sâu xa (sâu và rộng hơn nhiều so với
Triều Tiên, Nhật).
Trong “Khối cộng đồng tưởng tượng”, Anderson luận bàn thế này: “Tuy
rằng vương triều thống trị Hà Nội và Huế (kinh đô triều Nguyễn) mấy thế kỷ qua
đều bảo vệ được nền độc lập, không bị Bắc Kinh xâm phạm, nhưng rốt cuộc họ vẫn
cứ dựa vào bè lũ quan liêu dốc lòng bắt chước người Trung Quốc để cai trị đất
nước.
Cơ quan nhà nước dựa vào chế độ “khoa cử” – kiểu thi viết về chủ
đề là các kinh điển Nho giáo để lựa chọn và đề bạt người tài; các văn bản của
triều đình đều viết bằng chữ Hán; về mặt văn hóa, mức độ Trung Quốc hóa của
giai cấp thống trị cũng rất sâu.”
Rồi Anderson phân tích: Sau năm 1895, các trước tác của Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu và sau này là của Tôn Trung Sơn… truyền vào Việt Nam
khiến cho “mối quan hệ lâu dài giữa Việt Nam với Trung Quốc không được [chính
phủ thực dân Pháp] hoan nghênh”.
Bởi thế nên vào khoảng
năm 1915, chế độ khoa cử bị bãi bỏ, thay bằng hệ thống giáo dục thuộc địa với
tiếng Pháp là môn học chính.
Ngoài ra, chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa được hết sức đề
xướng, qua đó làm cho các thế hệ mới của người Việt Nam thuộc địa do không thể
tiếp xúc với thư tịch của thời đại các vương triều cũng như văn học cổ xưa mà
bị cắt đứt mối liên hệ với Trung Quốc – cũng có thể gồm cả quá khứ của bản địa
Việt Nam.
Theo Anderson, đối với tầng lớp tinh hoa bản xứ Việt Nam, sự
“Thoát Trung” do người Pháp cưỡng chế tiến hành không phải là chủ ý của
người Việt, mà là một quá trình bị động.
Như vậy sau khi đã đánh
đuổi thực dân Pháp (nhất là dưới sự giúp đỡ của quân đội Trung Quốc), Việt Nam
hoàn toàn có thể trở lại con đường truyền thống “Trung Quốc hóa”, điều đó chẳng
những có thể tăng cường mối quan hệ “láng giềng hữu hảo” giữa Việt Nam với
Trung Quốc mà cũng có thể giúp cho người Việt Nam lập lại mối liên hệ với tổ
tiên mình.
Song le sự thực lại không như vậy.
Phần tự thuật của Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam đến năm
1945 thì chấm dứt. Chỉ có thể tìm hiểu thời kỳ tiếp theo của lịch sử Việt Nam
từ một bảo tàng khác – “Bảo tàng Cách mạng Việt Nam” ở bên kia đường phố. Viện
Bảo tàng này trưng bày thời kỳ từ khi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam thức tỉnh cho
tới ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam rồi đến chiến dịch Điện Biên Phủ,
người Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp; về cơ bản có thể coi là lịch sử giai
đoạn đầu quá trình phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó tràn ngập sự
tuyên truyền mang màu sắc thần thoại, điều này không có gì khó hiểu.
TIỀN ĐỀ CẤU TẠO QUỐC GIA DÂN TỘC
Khác với các vật trưng
bày tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia các vật trưng bày trong Bảo tàng Cách mạng
hầu như không có chữ Hán, thậm chí hầu như không có hai chữ “Trung Quốc”.
Tại đây, phong trào Việt Nam độc lập chống Pháp hoàn toàn do
người Việt Nam tự thực hiện, không một chữ nào nhắc tới sự viện trợ của Trung
Quốc.
Có điều đáng chú ý là
ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình, Hồ Chí Minh tuyên bố sự ra đời của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà lãnh đạo xuất thân từ một gia tộc Nho học
nhiều đời, có vốn hiểu biết chữ Hán vững vàng này đã đọc trước công chúng bản
“Tuyên ngôn Độc lập” viết bằng chữ Quốc ngữ Việt Nam La tinh hóa. Sau đó không
lâu, Hiến pháp năm 1946 ghi rõ chữ Quốc ngữ là chữ viết chính thức của Việt
Nam.
Cuốn sách “Khối Cộng đồng tưởng tượng” của Anderson không quan
tâm nhiều tới lịch sử “Thoát Trung” của Việt Nam, nhưng trong sách có riêng một
chương bàn về sự thức tỉnh của chủ nghĩa dân tộc ở các quốc gia thuộc địa sau
Thế chiến II và con đường xây dựng nhà nước dân tộc.
Trong đó, tìm kiếm sự thừa nhận thân phận dân tộc mình là bước
đi tất yếu để xây dựng quốc gia dân tộc, là cơ sở logic để thực hiện “Khối cộng
đồng tưởng tượng”, mà quá trình tìm kiếm đó ắt phải là quá trình chủ động, tỉnh
táo.
Đối với tầng lớp lãnh đạo Việt Nam sau ngày độc lập, trở lại
“Trung Quốc hóa” tuyệt đối không phải là con đường đúng đắn để xây đắp sự đồng
thuận của dân tộc.
Ngược lại, “Thoát Trung”
mới là điều kiện tất yếu để xây dựng một quốc gia dân tộc. Nói cách khác, nếu
Việt Nam muốn trở thành một quốc gia hiện đại độc lập thì “Thoát Trung” là nền
tảng, là cốt lõi, là một sứ mệnh lâu dài.
Điều đó về cơ bản nhất
trí với nhận thức “Thoát Trung” của Nhật Bản, Triều Tiên vốn là các nước trong
vành đai văn hóa Trung Hoa, cho dù quá trình “Thoát Trung” của Việt Nam cần
thời gian dài hơn, và quá trình đó càng đau khổ hơn đối với hai nước Trung Quốc
và Việt Nam.
NGUYỆN VỌNG CỦA
TẦNG LỚP LÃNH ĐẠO VIỆT NAM
Sau Thế chiến II, 200 nghìn quân Quốc Dân Đảng Trung Quốc tiến
vào Việt Nam với danh nghĩa tiếp thu sự đầu hàng của quân đội Nhật chiếm đóng
Việt Nam. Không lâu sau, quân đội Pháp cũng đổ bộ vào Việt Nam, yêu cầu phục
hồi chủ quyền của quốc gia cai trị thuộc địa trước chiến tranh. Tưởng Giới
Thạch lấy việc Pháp trả lại cho Trung Quốc một số lợi ích kinh tế như các tô
giới trong lãnh thổ Trung Quốc làm điều kiện trao đổi để rút quân Quốc Dân ra
khỏi Việt Nam.
Phần lớn các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam thời ấy đều
phản đối việc trao trả Việt Nam cho thực dân Pháp, nhưng Hồ Chí Minh lại ký vào
Hiệp định.[1] Vì thế mới có
chuyện trong ghi chép của nhà báo Mỹ Stanley Karnow có viết một danh ngôn của
Hồ Chí Minh:
“Lũ ngốc này! Chẳng lẽ các anh không biết rằng để người Trung
Quốc ở lại có nghĩa là gì ư? Các anh không nhớ lịch sử à? Lần trước người Trung
Quốc đến đây, họ ở lại một nghìn năm. Người Pháp là kẻ từ bên ngoài tới, họ đã
rất suy yếu rồi, chủ nghĩa thực dân đang chết, người da trắng tại châu Á đang
hết đời. Nhưng nếu người Trung Quốc ở lại thì họ sẽ mãi mãi không bỏ đi đâu!
Tôi thà lại ngửi cứt bọn Pháp thêm 5 năm mà không muốn ăn cứt bọn Tàu suốt phần
đời còn lại.”[2]
Trong thế giới Trung văn, câu nói này của Hồ Chí Minh có những
bản dịch khác nhau, có thể từ ngữ có chút dị biệt, nhưng ý nghĩa đại để như
vậy. Mặc dầu về sau giáo sư Liam Kelley ở Đại học Hawaii có nghi ngờ về xuất xứ
câu nói ấy của Hồ Chí Minh mà Karnow trích dẫn, thế nhưng qua liên hệ với hồi
ký của một số nhà lãnh đạo Trung Quốc thì những phát biểu của Hồ Chí Minh đại
loại như “Biểu hiện ngạo mạn của quân đội Trung Quốc thì giống như biểu hiện
của quân đội Trung Quốc thời xưa từng thường xuyên xâm phạm Việt Nam”, và
liên hệ tới chuyện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam xóa sạch sự viện trợ của
Trung Quốc giúp Việt Nam đánh đuổi thực dân Pháp, thì chẳng nói cũng biết tầng
lớp lãnh đạo Việt Nam đúng là có xu hướng mạnh mẽ “Thoát Trung”.
Điều thú vị là Anderson sinh ra ở Côn Minh, từ nhỏ gia đình ông
có thuê một bà bảo mẫu người Việt Nam; tuy sách của ông không bàn luận sâu về
mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc song ông lại nói chính cuộc chiến tranh Trung
Quốc-Việt Nam năm 1979 đã “trực tiếp gợi ý tôi viết cuốn Khối cộng đồng
tưởng tượng”.
Hồi đó toàn thế giới đều cho rằng cuộc chiến ấy có nguyên nhân
là sự đấu tranh phe phái trong thế giới cộng sản (Liên Xô và Việt Nam một phe,
Trung Quốc và Campuchia một phe), hoặc là cuộc xung đột địa chính trị của ba
nước lớn Trung Quốc, Mỹ, Nga.
Nhưng Anderson thì nhìn thấy rõ nguyên nhân lịch sử ở tầng sâu
hơn phía sau cuộc chiến ấy – đó là chủ nghĩa dân tộc vượt qua ý thức hệ, vượt
qua địa chính trị.
VIỆT NAM CÓ THỂ
TRIỆT ĐỂ “THOÁT TRUNG” ĐƯỢC CHĂNG?
Những năm gần đây, do xung đột trên vấn đề Biển Đông [nguyên
văn Nam Trung Quốc hải] và do nỗi đau vết thương còn lại sau cuộc
chiến 1979 ấy, một số nhà phân tích cho rằng Việt Nam có lẽ sẽ tăng cường độ
“Thoát Trung”.
Năm 2010 một bộ phim truyền hình cổ trang của Việt Nam quay tại
trường quay ở Trung Quốc vì “quá ư Trung Quốc hóa” mà bị chính quyền Việt Nam
cấm chiếu.[3]
Năm 2014, Bộ Văn hóa Việt Nam gửi công văn kiến nghị các
địa phương không bày biện, không sử dụng, không thờ cúng các loại tượng điêu
khắc, sản phẩm, linh vật và vật phẩm quái dị không hợp thuần phong mỹ tục Việt
Nam”. Nghe nói những vật phẩm ấy chủ yếu là các loại sư tử đá “Trung Quốc hóa”
nhập từ Trung Quốc.
Thế nhưng các cố gắng “Thoát Trung” về văn hóa của Việt Nam xem
ra không có hiệu quả lớn. Suy cho đến cùng, quá trình hơn 2000 năm ngấm văn hóa
Trung Quốc đã đặt nền móng văn hóa cho bản thân Việt Nam, triệt để “Thoát
Trung” sẽ tương đương với sự cắt đứt lịch sử của chính mình.
Ở Việt Nam ngày nay, tam
giáo Nho, Thích, Đạo đều có mảnh đất của mình, mà cả ba đều từ Trung Quốc
truyền sang, các tín đồ của họ vẫn chiếm tuyệt đại đa số trong số dân tin theo
tôn giáo ở nước này.
Về kinh tế, hầu như chẳng ai tin rằng trong một thời gian ngắn
Việt Nam có thể thoát khỏi sự dựa dẫm vào Trung Quốc. Cho dù nội bộ chính phủ
Việt Nam thỉnh thoảng có thảo luận vấn đề “Cố gắng Thoát Trung về kinh tế”
nhưng ngành chế tạo của Việt Nam chỉ là một khâu trong chuỗi sản xuất công
nghiệp do Trung Quốc làm chủ, sản phẩm làm ra lại cần lấy Trung Quốc làm nước
nhập khẩu lý tưởng.
Thoát khỏi Trung Quốc về kinh tế hầu như là một “nhiệm vụ không
thể thực hiện”.
Lĩnh vực Việt Nam có khả năng nhất để thực hiện “Thoát Trung” là
chế độ chính trị. Mặc dù rất khó có thể nói thể chế chính trị hiện nay của Việt
Nam là bản sao của Trung Quốc, nhưng mỗi lần Việt Nam và Trung Quốc xảy ra xung
đột thì hầu như lần nào mâu thuẫn cũng đều được hóa giải với lý do “giữ cho
toàn vẹn mối tình giữa hai đảng, hai chính phủ”.
Tuy nhiều báo đài từng đưa tin với tiêu đề đại để như “Công cuộc
cải cách thể chế chính trị của Việt Nam tiến nhanh hơn Trung Quốc” song tình
hình thực tế lại không như vậy, hoặc có thể nói việc cải cách thể chế ở Việt
Nam chưa có những đột phá thực chất.
Tháng 8/2014, hãng tin Bloomberg đưa tin: 61
thành viên Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó có một cựu đại sứ tại Trung Quốc,
cùng ký tên vào một bức thư ngỏ gửi Chính phủ Việt Nam. Bức thư viết: Các nhà
lãnh đạo nên “xây dựng một nhà nước thực sự dân chủ, pháp trị”, cho phép
tự do ngôn luận chính trị ở mức độ rộng hơn, “thoát khỏi” sự dựa dẫm vào
Trung Quốc.
Bản tin cho biết, một số người, kể cả các cựu quan chức chính
phủ đã dự thảo một bản Hiến pháp yêu cầu triển khai sự “cạnh tranh về chính
trị”.
Mặc dù kết quả bầu cử lãnh đạo mới đây không thể hiện Chính phủ
Việt Nam có dấu hiệu “thoát khỏi Trung Quốc”, nhưng việc vấn đề này có thể được
bàn luận trong thư ngỏ là đủ tỏ rõ nguyện vọng của một bộ phận khá đông đảo
trên chính trường Việt Nam.
Bất kể là trên vấn đề tranh chấp lãnh thổ hay vấn đề kinh tế,
Việt Nam đều tính toán khả năng dựa vào phương Tây, thậm chí từng có thời đã
xem xét vấn đề lập liên minh quân sự với quốc gia cựu thù là Mỹ, song le lại
khó có thể vượt qua trở ngại về ý thức hệ.
Nếu Việt Nam muốn tăng cường mối quan hệ với
phương Tây để chống Trung Quốc thì tiền đề ắt phải là
về chính trị nên mở cửa hơn, bỏ chế độ chuyên
chế một đảng,
về thể chế chính trị cần triệt để cắt đứt quan
hệ với Trung Quốc.
Bước đi này tuy không gian nan như sự “Thoát
Trung” về văn hóa nhưng lại chẳng dễ dàng thực hiện.
Bài không ghi tên tác giả, có lẽ là một nhà báo Trung Quốc giấu
tên. Nguyễn Hải Hoành biên dịch và ghi chú trong ngoặc [ ].
Nguồn tiếng Trung: 越南能否彻底“去中国化”? 2017-05-10
———————
[1] Có thể tác
giả muốn nói Hiệp định Sơ bộ Pháp-Việt, ký tại Hà Nội ngày 6/3/1946. Tham
khảo: https://vov.vn/the-gioi/ho-so/hiep-dinh-so-bo-631946-nuoc-co-sac-sao-cua-ho-chu-tich-va-dang-ta-486107.vov
[2] Câu cuối này
trong tiếng Anh là “I prefer to sniff French shit for five years than eat
Chinese shit for the rest of my life.” – Theo: Stanley Karnow’s Vietnam: A
History (New York: Viking Press, 1983).
[3] Có lẽ là phim
“Lý Công Uẩn – Đường dẫn tới thành Thăng Long” Tham khảo: https://nld.com.vn/van-hoa-van-nghe/khong-chieu-ly-cong-uan-duong-toi-thanh-thang-long-la-hop-le-20110609102020887.htm