VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Vài nét về tình trạng “Hạ chuẩn – loạn chuẩn – phi chuẩn” trong xã hội và giáo dục Việt Nam hiện nay

 

1/

Trước tiên, xin giới thiệu một bài viết của tác giả Lê Ngọc Sơn - Nghiên cứu sinh Đại học Công nghệ Ilmenau - CHLB Đức

 

Loạn chuẩn mực

và câu chuyện giáo dục Việt Nam

 

https://doithoaichinhkhach.wordpress.com/2016/07/02/loan-chuan-muc-va-cau-chuyen-giao-duc-viet-nam/

 

***

Nạn lạm phát bằng tiến sĩ được một số “lò” đào tạo trong nước cổ xúy... phản ánh một trạng thái mà các nhà xã hội học gọi là “thiếu vắng chuẩn mực xã hội”, “loạn chuẩn”, hay “lệch chuẩn” ở nước ta.

 

NHỮNG CHIẾC XE MẤT LÁI

Emile Durkheim (1858-1917), một trong những cha đẻ của ngành xã hội học người Pháp đã đưa ra khái niệm anomie để giải thích về một hiện tượng thường thấy ở các xã hội đang chuyển đổi: các cá nhân đối diện với việc thiếu vắng các chuẩn mực và giá trị xã hội.

 

Trong tác phẩm học thuật kinh điển mang tên Suicide (Tự tử, 1897), ông giải thích về việc trong xã hội nào để cho các ham muốn cá nhân lấn át những chuẩn mực chung của xã hội, tình trạng anomie ở xã hội đó sẽ rất trầm trọng.

 

Ông dùng khái niệm này để giải thích tình trạng tự tử gia tăng trong các giai đoạn bùng nổ kinh tế.

Theo đó, khi kinh tế phát triển, những nhu cầu của các cá nhân đã được đẩy lên vượt ngưỡng, và tiến tới mức khó xác lập độ hãm.

 

Phát triển khái niệm này, nhà xã hội học người Mỹ Robert Merton, người bị ảnh hưởng của Durkheim cũng dùng khái niệm anomie để giải thích hiện tượng xã hội.

 

Theo ông, bất cứ xã hội nào cũng có những chuẩn mực được hầu hết các thành viên trong đó chấp nhận, chẳng hạn như kiếm được nhiều tiền. Những giá trị đó được nội tâm hóa vào đời sống mỗi cá nhân, như là những lý tưởng và mục đích cần đạt được trong cuộc sống của họ.

 

Để giúp mỗi cá nhân đạt được mục đích đó (kiếm được nhiều tiền), thì xã hội trang bị các phương tiện khác nhau cho cá nhân: sự công nhận xã hội, học hành...

 

Nhưng các phương tiện này là hữu hạn, nên một số cá nhân thích “nhảy cóc” hoặc “đi đường tắt”, viện các cớ khác nhau để đạt được mưu cầu của mình, chẳng hạn, làm việc phi pháp để trục lợi, đạt mục đích kiếm được nhiều tiền.

 

 

Đứng trước các yêu cầu của hệ thống chuẩn mực đã có, theo Robert Merton, cá nhân sẽ có nhiều cách thích ứng, một trong các cách đó là “thích ứng biến cách”. Nghĩa là các cá nhân ý thức được mục tiêu vươn tới của cộng đồng, của nền văn hóa, nhưng lại không chấp nhận các cách thức thường có.

 

 

Ví dụ điển hình cho cách thích ứng (và gây loạn chuẩn) này là việc không ít nghiên cứu sinh biết rằng mục tiêu của xã hội là cần có những tiến sĩ để đóng góp cho tri thức nước nhà, nhưng thay vì bằng thực học, lại chọn con đường dễ dàng là chạy chọt mua điểm hay đạo văn.

 

 

Chính những cá nhân này, cộng với sự tiếp tay của những người có trách nhiệm, đã đẩy xã hội bước tiếp vào vòng xoáy loạn chuẩn. Những tiến sĩ hàng giả này, làm việc một số năm nhất định, lại tạo ra những tiến sĩ hàng giả khác. Họ hình thành những “vòng ảnh hưởng” của riêng mình, những tiến sĩ thật thì bị loại trừ.

 

 

Và cứ thế, “xã hội” như những chiếc xe mất lái, tuột dốc không phanh: vốn loạn chuẩn sẽ tiếp tục loạn chuẩn.

 

 

Sự thiếu vắng chuẩn mực trong giáo dục đã triệt tiêu những lý tưởng và hoài bão về phát triển lành mạnh bản thân mỗi cá nhân. Về sâu xa nó tạo nên sự tụt hậu, sự rối ren, thay vì đem lại một “trật tự ngầm” và đà tiến lên cho một xã hội.

 

Chính cái cách đào tạo tiến sĩ ồ ạt, và sự dễ dãi qua các đề tài, chất lượng nghiên cứu sinh (ít nhất là về mặt ngoại ngữ) như thế đã làm những người quan tâm đến giáo dục nước nhà nghĩ đến một cuộc loạn chuẩn hoặc thiếu chuẩn cho giáo dục Việt Nam.

 

 

GIÁO DỤC PHẢI TẠO RA VÀ DUY TRÌ CÁC CHUẨN MỰC: TRƯỜNG HỢP NƯỚC ĐỨC

Chuẩn mực là yếu tố sống còn trong nhiều xã hội phát triển, điển hình như xã hội Đức. Nhiều người ngạc nhiên khi đến Đức, bước vào giảng đường hoặc các phòng nghiên cứu, các giáo sư được kính nể khác thường.

 

Ở Đức, một đất nước văn minh và phát triển hàng đầu thế giới, trong xã giao, bạn sẽ nghe rõ người ta giới thiệu về một ai đó có học hàm, học vị, sẽ là: Đây là Ngài/ Giáo sư X, đây là Ngài/ Tiến sĩ Y (gọi bằng họ để thể hiện sự tôn trọng tối đa), chứ ít khi xưng tên kiểu “cá mè một lứa”.

Theo tâm lý đám đông của ta mà nhận xét thì người Đức thật là hám danh, thích bằng cấp. Nếu vậy, đó là một sự nhầm lẫn rất lớn.

 

Nước Đức là một xã hội nổi tiếng kỷ cương, các chuẩn mực rất rõ ràng, chính các chuẩn mực là sợi dây rường néo để dẫn dắt xã hội phát triển.

 

Nền giáo dục nổi tiếng là khắt khe về chất lượng đã góp phần rất lớn vào việc gia cố các thành tố này, giáo dục góp phần định hình và duy trì chuẩn mực xã hội:

ngay sau khi học bậc tiểu học, học sinh đã được định hướng nghề nghiệp và phân loại, những em muốn theo hướng học nghề sẽ chọn vào các trường phù hợp, còn những học sinh thực sự giỏi và có đam mê sẽ theo các thang bậc để lên trường chuyên.

 

Đến bậc thạc sĩ và tiến sĩ, theo hệ thống phân loại của Đức, thì đó phải là những người rất xuất sắc về học vấn trong ngành của họ.

Cứ càng học lên, đầu vào và đầu ra được thắt lại, số lượng không còn là vấn đề. Phải là những “cột cờ” nổi bật được chọn từ “bó đũa” thì mới có cơ hội bước tiếp vào lĩnh vực học thuật bậc cao hơn.

 

Do vậy, để đạt được các học vị và chức danh học thuật ở Đức là điều không hề đơn giản. Đó là lý do mà xã hội Đức rất trọng những người có chức danh học thuật và học vị cao, dù những người này không phải là đại gia giàu có.

 

Đến lượt mình, sự kính trọng, sự tôn vinh lại là động lực để chính các cá nhân trong xã hội Đức phấn đấu đạt tới (nếu như có năng lực, ước muốn hay nhu cầu).

 

Do vậy, thật đáng buồn khi nghĩ về các “lò sản xuất học vị” hàng loạt ở ta. Những hiện tượng này chỉ khuếch đại thêm sự loạn chuẩn của xã hội, thay vì đóng góp nhằm tạo dựng các thang bảng giá trị thật. Muốn chiếc xe xã hội ổn định lộ trình, giáo dục cần phải tiên phong làm gương tạo ra những chuẩn mực.

 

2/

Một vài suy nghĩ của tôi

sau khi đọc bài viết trên

Không chỉ có giáo dục mà cả xã hội Việt Nam hôm nay đang trong tình trạng loạn chuẩn mà chưa bao giờ được đặt vấn đề nghiên cứu đến mức có thể tìm thấy lối thoát.

Thậm chí tôi còn có cảm tưởng chúng ta đang tồn tại bằng sự loạn chuẩn và sự hỗn loạn ngày càng phát triển thêm.

Lý do có nhiều mà một lý do ai cũng cảm thấy nhưng ngại nói ra. Xã hội đã đi lạc đường. Chiến tranh đã tách chúng ta khỏi thế giới. Chiến tranh đã kéo chúng ta lại. Tiếp đó là một định hướng đi tắt đón đầu đầy ảo tưởng.

Cũng có những lúc người ta hiểu rằng hạ thấp tiêu chuẩn là điều trước sau sẽ thất bại, nhưng rồi xu thế nhăm mắt làm liều vẫn thắng.

Không chỉ loạn chuẩn mà còn cố tình hạ chuẩn, đó là lí do khiến chúng ta không bao giờ ngóc đầu lên được

Cái việc hạ chuẩn nói ở đây không phải là chuyện riêng của ngành giáo dục. Nhưng khi đã xâm nhập vào giáo dục rồi thì nó càng củng cố vai trò một thứ tư tưởng chi phối xã hội.

Nói chưa bao giờ người Việt kiêu căng như lúc này cũng đúng. Mà nói ngược lại cũng đúng. Hình như nay là lúc trong thâm tâm nhiều người bắt đầu lờ mờ cảm thấy rằng không chừng người mình ngày càng lạc hậu so với thế giới, mà có cố gạt đi cũng không gạt nổi?!

Tiếp theo là một vài phác họa về tai hại của việc hạ chuẩn trong giáo dục VN hiện nay.

 

Hạ chuẩn làm cho các nhà chuyên môn

hết khát vọng phấn đấu

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, chúng ta chỉ có một nền giáo dục trung học kéo dài 9 năm. Hoặc như ở bậc gọi là đại học, thì khi tôi học ở Đại học Sư phạm Vinh từ 1961-1963, sinh viên cũng chỉ học trong hai năm, mà lại bao gồm cả văn và sử.

Khi áp dụng các chương trình đó, người ta giải thích là do nhu cầu cần thiết của hoàn cảnh phải làm như vậy sau sẽ bổ sung dần. Nhưng thực tế là có một sự hạ thấp tiêu chuẩn trong giáo dục cách mạng so với giáo dục trước 1945.

Tư tưởng thực dụng ngự trị.

Tư tưởng tách rời giáo dục Việt Nam với thế giới chi phối mọi suy nghĩ của những người quản lý xã hội và ăn sâu vào cách xử lí của những người làm giáo dục.

Nó nằm trong tình trạng chung lúc ấy là chúng ta muốn sống biệt lập, tưởng rằng có thể sống không quan hệ với ai ngoài những người cùng “phe” và cũng chẳng cần ai chẳng lo học hỏi ai hết.

 Một sai phạm to lớn nữa cũng do tư tưởng biệt lập sinh ra đó là không cho học sinh sinh viên học ngoại ngữ và riêng với các môn khoa học xã hội thì không tiếp nhận sách vở của nước ngoài.

Thời tôi còn là sinh viên từng được nghe truyền tụng một câu nghe nói là của ông Tố Hữu:

-- Về khoa học tự nhiên chúng ta có thể yếu một chút chứ còn về khoa học xã hội, thế giới cứ gọi là phải mang sách vở đến mà học chúng ta chứ tưởng!

Những nhận định loại đó là cả một tai họa lớn khi biến thành chỉ thị nghị quyết chi phối cả xã hội; mặc dù sau đó có được sửa chữa ít nhiều, nhưng quan niệm ấy đã thành cả một nếp nghĩ chủ đạo và để lại di lụy sâu sắc trong nền giáo dục hiện thời.

Cần nói thêm rằng suốt thời gian chiến tranh – mà có ít đâu hàng vài chục năm trời --, trong giáo dục cũng không tính chuyện học hàm học vị gì cả. Trong nhà với nhau, có tiếp xúc với ai đâu mà cần phải phong cấp phong chức cho nhau - người ta bảo vậy.

Đến khoảng thời gian từ 1970s, khi bắt đầu cảm thấy rằng ít nhiều mình vẫn phải sống chung với thế giới, người ta mới bắt đầu tính lại một số việc nhưng còn rất lúng túng và còn mang nặng tính chất biệt lập, theo sự chi phối của hệ tư tưởng. Thời điểm này cũng là lúc bắt đầu áp dụng chế độ học hàm học vị với sự chi phối của những tư tưởng tiểu nông không thể gọi là có triển vọng.

Nhưng câu chuyện này quá dài và tôi cũng không phải là người hiểu biết kĩ càng nên không thể đi sâu vào diễn biến của tình hình.

Tôi chỉ nhớ là lúc đầu giáo dục của ta cũng học theo như bên Nga, tức là sau khi tốt nghiệp đại học thì học Phó Tiến sĩ (hồi đó hay nói đùa là phun thuốc sâu cũng như Giáo sư Tiến sĩ gọi đùa là gà sống thiến sót). Tuy rằng lúc ấy các Phó Tiến sĩ của ta về mặt chất lượng cũng chưa thể nói là đạt tiêu chuẩn quốc tế, nhưng dẫu sao vẫn còn có chữ Phó để cho người ta biết rằng người ta đang ở mức nào trong bậc thang giáo dục. Ít lâu sau tôi nghe nói rằng cái bậc thang Phó ấy bị dứt bỏ hẳn; từ nay sau đại học học thêm mấy năm với các thầy là Giáo sư - Tiến sĩ mới được phong trước mình vài năm, là người ta được đồng loạt gọi là Tiến sĩ.

 

Khi có được học hàm học vị một cách quá dễ dãi, chỉ có một số ít người còn tỉnh táo và hiểu được sự non yếu của mình, nó không phải là thứ y phục xứng kỳ đức như người xưa đã dạy.

Nhưng đa số thì mất đi tinh thần cầu học, cầu tiến thật sự, dương dương tự đắc là mình không kém gì nước ngoài, dẫn đến tình trạng là mọi người đua nhau làm Giáo sư, làm Tiến sĩ – mà phần lớn không có thực chất - như chúng ta đang thấy.

 

 

 

 

 

 

Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn