Lời dẫn
Về mặt
chủng loại, văn học Hà Nội cả trước và sau chiến tranh là một nền văn học
thuần nhất khép kín. Nó giống như một vườn cây độc canh hơn là một khu rừng tự
nhiên bình thường. Hầu hết các nhà văn sống và viết theo một định hướng giống
nhau và chất liệu làm nên văn chương lại càng giống nhau. Xét về măt mô hình, rất hiếm khi người ta gặp những kiểu tồn tại khác lạ, ví dụ như
trường hợp chuyên viết về thiên nhiên và thú vật như của nhà văn Vũ Hùng (1931 2022) dưới đây. Bài viết của chúng tôi nguyên là
|
***
Thiên nhiên dữ dội, thiên nhiên hùng
tráng
--
Cũng như các bạn trẻ bây giờ,
các cuốn sách tiếng Việt mà tôi học ở tiểu học cũng có nhiều bài nói về
thiên nhiên cây cỏ. Nhưng thiên nhiên trong những bài đó thường chỉ thu vào
những cảnh tượng đơn sơ nhỏ hẹp. Những cánh đồng phì nhiêu, cây đa đầu làng,
dòng sông bến nước, cảnh vật gợi ra một cảm giác êm đềm thơ mộng nhưng
đơn sơ quanh quẩn.
Trong các câu chuyện mà tôi được
nghe người trong gia đình kể lại, thiên nhiên lại còn là một cái gì khủng
khiếp. Mưa to gió lớn mà gia đình tôi sống trong những căn nhà dột nát, làm sao
không thấy ghê sợ. Nghĩ tới những miền đất xa xôi người lớn trong nhà thường
gọi là đường rừng thường kèm thêm với mấy chữ ma thiêng nước độc, lại
thấy con người mình như nhỏ bé quá.
Những ấn tượng ấy còn
theo tôi cả khi bắt đầu tiếp xúc với sách vở. Lúc học tiểu học tôi chưa
được biết tới Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Hương rừng Cà Mâu
của Sơn Nam, mà chỉ biết tới một số tác phẩm như Truyện đường rừng của
Thế Lữ, cảm tưởng chính về rừng rú vẫn là tăm tối bí hiểm và gợi nhiều đe dọa.
Giới thiệu tác phẩm của Vũ Hùng mà
các bạn sắp đọc, trước tiên tôi muốn nói là vào đây các bạn sẽ gặp một thứ
thiên nhiên muông thú cây cỏ khác.
Nhà tiểu thuyết Nguyên Hồng từng
viết nên những câu thơ kỳ lạ, nói rất trúng cái thần của một vùng thiên nhiên
Miên - Lào mà ông chỉ biết do đọc sách chứ chưa hề đặt chân tới
Mê Kông chảy
Cây lao đá đổ
Lan hoang dứa mật thông nhựa lên hương
Những trưa hè ngun ngút nắng Trường Sơn
Ngẫm nghĩ voi đi
Thác Khôn cười trắng xóa
Trong việc miêu tả thiên nhiênVũ
Hùng cũng đi theo mỹ cảm tương tự.
Thiên nhiên trong văn ông có một vẻ
đẹp nhưng là cái đẹp nam tính, cái đẹp khỏe mạnh. Tiếp xúc với một thiên nhiên
như vậy, con người ban đầu có thể hoảng sợ, nhưng khi đã hiểu đã gắn bó
rồi, lại thấy như có thêm sức mạnh và muốn vươn lên sống ngang tầm với thiên
nhiên đó.
Nói về tính hai mặt của rừng, Từ
điển biểu tượng văn hóa thế giới của nhà R. Laffon bên Pháp ( bản dịch của
Nxb Đà Nẵng 2002), viết rằng -- cũng như tất cả những biểu hiện mạnh mẽ của
đời sống -- rừng là nơi sản sinh ra vừa sự lo lắng vừa sự bình tâm, cả sự
ức hiếp lẫn lòng thiện cảm. Vũ
Hùng cũng chia sẻ với ta cái cảm giác hai mặt đó.
Cái cảm tưởng đêm ngủ rừng nói sau
đây đúng là cảm tưởng của một thanh niên mới lớn, đang trên đường tìm hiểu và
chinh phục thiên nhiên:
“Lửa bốc mạnh. Lửa càng bốc, bóng
tối càng như dày đặc. Cây cối mang từng vệt lửa đỏ vặn mình ngả nghiêng. Con
suối đánh đàn thánh thót dưới chân. Rừng đêm lạ lùng như vậy: Bóng tối làm ta
lo sợ nhưng con suối thì vẫn diụ dàng êm ái“ (Giữ lấy bầu mật).
Từ toàn bộ tác phẩm của Vũ Hùng thấy
toát lên hình ảnh cao đẹp của con người chinh phục tự nhiên. Vượt lên trên mọi
sự hoang dã, chính họ sẽ trở nên con người văn hóa hoàn thiện và tràn trề
hạnh phúc.
Những quần thể động vật biết sống
hài hòa
Điều quyến rũ thứ hai mà tôi từng
tìm thấy ở các tác phẩm Vũ Hùng là cuộc sống của một bộ phận lớn làm nên cái
thiên nhiên hoang dã nói trên– đó là cái sinh hoạt của các động vật trong
rừng-- các giống muông thú.
Từ Dế mèn phiêu lưu ký đến
các nhân vật trong O chuột của Tô Hoài rồi sau này là Văn Ngan
tướng công, Cái tết của mèo con…, trong sáng tác của các nhà văn ta, nhiều
loại vật đã trở thành nhân vật quen thuộc của bạn đọc nhỏ tuổi.
Thông thường, các truyện đưa ta vào
trong thế giới hiền hậu đáng yêu của những con vật nhỏ bé. Còn những con lớn
thường bị đổ cho đủ mọi thói xấu. Sống bên những loài bị coi là độc ác
hung dữ đó, các loài thú nhỏ muốn tồn tại phải tinh ranh nhiều khi đến mức gian
trá.
Tại sao lại có tình trạng như
vậy? Người Việt ở đồng bằng Bắc bộ là một cộng đồng xa rừng nhạt biển. Trong cơ
cấu nông nghiệp cuả ta, nghề chăn nuôi không phát triển, chỉ có dạng nuôi nhỏ
lẻ trong các gia đình, lấy thịt ăn. Chăn nuôi các gia súc lớn là chuyện hiếm
hoi. Việc thuần dưỡng các loại thú vật hoang dã để phục vụ cho lao động
con người ở ta không có.
Trong cách miêu tả của Vũ Hùng, giới
động vật miền rừng hoàn toàn có đặc điểm mà các thế hệ người Việt ít
biết.
Chúng mang tất cả những đặc điểm của
thiên nhiên mà chúng tôi vừa nói ở trên. Cái mới mà Vũ Hùng mang lại là làm cho chúng trở nên gần gũi với con
người.
Sau đây là mấy nét chủ yếu về
thế giới các động vật tổng hợp từ các trang viết của Vũ Hùng về các loài thú:
-- Mỗi loài sinh ra như có cái lý
riêng của nó, mỗi loài có cái hay này đỡ cho chỗ dở kia, mỗi loài mang vào
thiên nhiên một khía cạnh làm giàu cho thiên nhiên. Các loài lớn như voi như hổ
không hề phung phí sức lực để khoe khoang và làm hại các loài khác. Còn các
loại thú nhỏ và ít khả năng tự vệ như một loài chim mấy anh em nhà hươu thì lại
khôn ngoan với nghĩa biết tìm ra một không gian sống của riêng mình.
-- Sự thông minh của mỗi loài
tập trung vào hai khía cạnh, kiếm ăn và duy trì nòi giống.
-- Trong một loài, luôn luôn có mối
quan hệ tốt đẹp con nọ chung sống với con kia, kẻ yếu được kẻ mạnh che chở.
Ngay giữa các loài khác nhau cũng vậy, mối quan hệ là đùm bọc che chở, là
“cùng tồn tại một cách hòa bình”, như khao khát của con người đương đại về tình
hữu ái giữa người với người.
-- Nhưng trong cuộc sống luôn luôn
cũng kèm thêm những tai họa.
Chú ngựa non Antai cùng bè bạn
bị những bày sói đến rình.
Trên đường đi tìm một miền đất sinh
sống, Sao Sao và Nai bông, bị cọp rình mò, Nai bông phải hy sinh để cứu bạn.
Hình như mỗi con thú thông
minh đều biết rằng trong những trường hợp hiểm nguy, sự hy sinh là cần thiết,
kẻ sống sẽ thay kẻ chết tiếp tục đưa cả cộng đồng tới đích.
Ấn tượng nhất đối với tôi là những
trang Vũ Hùng viết về voi.
Voi như tượng trưng cho thiên nhiên hoang
dã. Voi sống thành từng bầy, trong mỗi bầy luôn luôn có một trật tự ngự trị.
Để kiếm ăn trên một không gian rộng lớn, bao gồm cả những ngày dài phải đi
lại chuyển vùng, các đàn voi có cách tổ chức riêng, cách quan hệ riêng
với nhau, giống như một thứ pháp luật mà mọi thành viên cùng tôn trọng.
Có hai lầnVũ Hùng miêu tả cái chết
của voi. Một lần là hành vi tự sát của một con voi không chịu thuần phục mà chỉ
muốn sống đời hoang dã. Và một là cái chết chung của một gã voi đực từng có
thời gian rất oai hùng. Cả hai đều là những cái chết bi tráng.
Tổng hợp lại, tác giả viết:
"Không bao giờ con voi già chịu chết
dễ dàng, bác Bun Mi nói. Có lần tôi đã
thấy xác một con voi già chân đạp
lên xác một con hổ và bên cạnh
nó là một con báo đang hấp hối.
Cái vòi con voi bị những chiếc vuốt cào rách bươm nhưng con hổ thì
mang hai vết ngà sâu hoắm ở ngực
còn con báo thì bị quật gãy xương sống. Con voi
già đã chết sau trận thắng cuối
cùng." Trong rừng gần như mọi con voi đực đều đi
đến cái kết thúc bi thảm
đó. Chúng không bao giờ được
sống trọn tuổi già, không bao giờ được
chết một cái chết bình yên”.
Đọc những đoạn như thế này,
tôi thấy nao nao trong lòng, tự cảm thấy có một sự kính phục như khi được
nghe kể về những bậc anh hùng cái thế.
Con người như một bộ
phận của thiên nhiên
Hồi kháng chiến chống Pháp,
những người lính tình nguyện Việt Nam sống trên đất Lào có một cuộc sống đặc
biệt mà có lẽ các thế hệ ngày nay không thể tưởng tượng nổi. Là một người lính
quân báo, Vũ Hùng và đồng đội sống giữa lòng dân, hành quân di chuyển do
người dân hướng dẫn, vào đồn thu thập tài liệu phục vụ mặt trận xong có khi lại
về nghỉ ngơi sinh hoạt cùng với dân.
Từ đó hình thành tình yêu của tác
giả với những con người của xứ sở Triệu Voi, một tình yêu bền bỉ bao gồm cả
kính trọng sâu sắc.
Họ là người Lào, người Miên và
ở ven Trường Sơn, là người Khạ, người Maca. Các dân tộc chung một tình
yêu mến đồng loại cũng như yêu mến mảnh đất đã nuôi sống mình.
Trên cái nền thiên nhiên hùng tráng
dữ dội như đã nói, con người không tìm cách lảng tránh mà nhập vào như một bộ
phận hòa hợp. Họ vừa biết khai thác thiên nhiên một cách thông minh để phục vụ
cho cuộc sống trước mắt, lại vừa biết giữ gìn và bồi dưỡng thiên
nhiên để tạo nên sự trường tồn .
Trải qua nhiều đời, ở họ đã
hình thành những phẩm chất cần thiết. Nhìn nhận thiên nhiên một cách hợp lý.
Khiêm tốn xem mình như một bộ phận của thiên nhiên để mà tìm ra một cách sống
hài hòa với hoàn cảnh. Học hỏi thiên nhiên để tổ chức chính cuộc sống của mình.
Trong việc miêu tả con người bản địa
Vũ Hùng có một sự quan tâm đặc biệt tới những người biết làm nghề thành thạo.
Nổi bật lên trong cộng đồng người Lào bình thương là các bác thợ
săn. Là ông Pôông và em Bru trong Mùa săn trên núi và Giữ lấy bầu
mật. Đặc biệt là bác Bun Mi trong Phía Tây Trường Sơn và Sống
giữa bầy voi .
Chẳng những giỏi săn voi mà còn
hết sức thông minh trong việc chăm sóc và thuần dưỡng voi; chẳng những
thông thạo quy luật chung của cả bầy đàn mà biết cách đối xử với
các loại voi Cá biệt -- đó là bác Bun Mi.
Trong con người bác như thấy kết
tinh những kinh nghiệm sống và làm người của nhiều thế hệ.
Có lần người quản tượng Bun Mi nói
với tác giả:
--Hãy đối xử với bầy voi, những kẻ giúp
việc ta, như đối xử với con người.
Khi tìm hiểu quan niệm và
cách xử sự với các loài động vật của bác thợ săn này , ta sẽ hiểu ra mối
quan hệ giữa người với người trong xã hội Lào.
Các hồi ký hay là cuộc sống làm
người thời gian đất nước thanh bình
Những năm tám mươi của thế kỷ trước,
đọc Vũ Hùng, tôi sớm nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên hùng tráng và cuộc sống hài
hòa của những loài thú, kể cả các loài hoang dã.
Nếu mấy chục năm trước cùng
đọc với con trai, thì hôm nay lại có dịp đọc với các cháu nội.
Ở tuổi 70, tôi vẫn bị Vũ
Hùng lôi cuốn từ tập này tới tập khác. Và tôi chợt nhận ra ở trang
sách của Vũ Hùng còn có một bề sâu khác, đó là chiều sâu nhân bản, nó bao quát
từ những mảng miêu tả thiên nhiên muông thú mà ở trên đã nói cho tới những con
người như một bộ phận chủ đạo mang lại cho thiên nhiên một sự định hướng .
Thiên nhiên trong Vũ Hùng có tính
hợp lý cao độ. Đó không phải là một thiên nhiên hỗn độn. Ngược lại ở
đây luôn luôn ngự trị trật tự và một cái gì đó giống như sự lương thiện.
Khi viết về loài nào, Vũ Hùng cũng
thường chú ý tới việc chúng được hướng dẫn ra sao khi bước vào đời.
Trường học đầu tiên là các gia đình. Ngựa An tai học làm ngựa trong sự
hướng dẫn ân cần của mẹ. Hươu sao được cha mẹ đặc biệt khuyến khích trên
đường đi tìm những vùng đất mới. Các gia đình không níu kéo và bênh vực những
trẻ lười biếng, trái lại muốn đào tạo chúng thành những con thú tự tin tự
trọng, dám đối mặt với mọi thách thức của đời sống.
Tại sao lại có một thiên hướng
rõ rệt đó, từ lâu tôi đã tự hỏi mà không biết. Chỉ đến thời gian
gần đây, đọc các đoạn hồi ký Vũ Hùng viết về gia đình mình trong Mái nhà
xưa, thì tôi mới thật hiểu. Chính Vũ Hùng đã được giáo dục trong một môi
trường nhân bản mà ông đã miêu tả.
Qua những trang phác họa
của Vũ Hùng về song thân của ông, người chị cả, người anh lớn, những người hàng
xóm như một bác già nuôi chim và bán chim, một chị vú em…người đọc các thế hệ
sau có thêm hiểu biết về con người Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử
thanh bình thịnh trị.
Đó là thời con người sống biết
điều và nhân hậu, phân biệt thiện ác rõ ràng, biết cái tốt phải theo và cái xấu
phải từ bỏ.
Từ trong việc kiếm sống, việc
học hỏi và giáo dục bọn trẻ, việc đối xử với thiên nhiên…, mọi người đều
tự nguyện tuân theo những nguyên tắc nhân bản cao cả, nhờ thế họ luôn tìm được
niềm vui sống đơn sơ mà chắc chắn.
Về sau trong hoàn cảnh tàn phá của
chiến tranh, những con người mới lớn lên trong các gia đình đó vẫn đứng
vững và những kinh nghiệm sống còn nguyên giá trị với các thế hệ tiếp tức là
chúng ta hôm nay.
Ngòi bút tri thức
Không phải chỉ ở Việt
Nam mà với nhiều nước, truyện viết về thiên nhiên loài vật không được chú ý
đúng mức và thường có sự phát triển thiên lệch.
Theo nhận xét Ernst Thompson
Setor (1860-1946) là một nhà văn người Canada gốc Anh, “Từ trước tới nay,
người ta mới biết những câu chuyện ngụ ngôn, những truyện cổ tích về các
con vật, những câu chuyện mà loài vật nói với nhau, xử sự với nhau chẳng khác gì
những con người – trong trường hợp này chúng chẳng qua là những con người được
bộ lông áo của loài vật” (Dẫn theo lời giới thiệu trong cuốn Ernst Thompson
Setor --Truyện loài vật—nxb Văn học H. 2011)
Thompson Setor đã mang lại cái
mới bằng cách đối xử với thế giới động vật một cách nghiêm túc đồng nghĩa với
một tinh thần nghiên cứu công phu về đối tượng và nhìn nhận chúng
theo những nguyên tắc thiêng liêng của sự sống.
Mọi sự so sánh đều khập khiễng, tuy
nhiên tôi cứ nhớ tới nhà văn Canada vừa dẫn khi tiếp xúc với con người và
những trang sách của Vũ Hùng.
Đọc tác phẩm viết cho thiếu nhi ở
nhiều nhà văn khác, ta chỉ có cảm tưởng tác giả giỏi quan sát. Vũ Hùng cũng
giỏi quan sát và có những trang văn tinh nghịch hợp với tuổi trẻ. Nhưng vẻ tươi
trẻ ở các trang sách trong Mùa săn trên núi, Sống giữa bầy voi
không đồng nghĩa với vẻ nhí nhảnh giả bộ ngây thơ mà ngả sang cái gì trầm
hùng. Miêu tả ở Vũ Hùng là kết quả của cả đọc lẫn nghĩ.
Người ta thường chỉ xếp Vũ Hùng vào
khu vực văn học thiếu nhi. Tuy nhiên gần đây có dịp đọc lại, tôi nhận ra rằng,
có một số cuốn, một số trang sách của ông cũng là dành cho cả các bạn đọc lớn
tuổi.
Dưới hình thức ghi chép, Sống
giữa bày voi giống như một khảo luận công phu về mọi hoạt động không
chỉ của loài thú và những người săn thú. Tôi thường đọc đi đọc lại
nhiều đoạn trong cuốn sách đó, nhất là cái đoạn ông khái quát về những quy luật
của rừng. Các đoạn văn ấy theo tôi là sự kết hợp cả hai:
-- kinh nghiệm sống của những người
dân Lào bình thường.
-- cái vốn văn hóa nhân bản mà ông
đã tiếp nhận được từ văn hóa phương Tây, cái phần mà ông đã học được từ những
năm học ở ngôi trường danh giá là Lycée du Protectorat (Trường Trung học Bảo hộ) nay là trường
Chu Văn An Hà Nội.
Ông như nhắn nhủ chúng ta: phải biết
đến với thiên nhiên từ văn hóa.
Cố nhiên điểm bộc lộ cao nhất của
tính chất trí thức ở Vũ Hùng chính là cái tinh thần nhân bản nó chi phối
mọi trang viết của ông, từ việc mô tả mối quan hệ giữa các loài vật cho đến mọi
ghi nhận về cách sống của những con người khi họ biết sống hòa hợp với thiên
nhiên hoang dã.
Đọc Vũ Hùng, tôi hiểu thêm một câu
nói của nhà văn Pháp J. de La Bruyere (1645- 1696):
--Có những chỗ làm cho người ta
thích nhìn ngắm; có những chỗ làm cho người ta rung cảm; có những chỗ làm cho
người ta ham sống. Đó mới là bộ mặt đầy đủ của thiên nhiên.
Đến đây bạn có thể đặt câu hỏi:
--Đây là trời đất thiên nhiên phong
cảnh của nước Lào, có gì gần với tôi. Tôi chỉ cần đọc những trang sách viết về
thiên nhiên cây cỏ ở Việt Nam chứ cần gì phải biết những chuyện bên Miên bên
Lào.
Tôi xin đáp một cách ngắn gọn:
-- Bạn không thể thu hẹp cuộc đời
của mình lại như vậy. Cái mà ta phải biết là cả thế giới. Cái mà ta phải học
hỏi để tìm ra cách sống hợp lý là kinh nghiệm của mọi dân tộc khác.
Sài Gòn, tháng 10 - 2014