Đọc các cuốn sách giáo khoa về sử học bậc trung học in ra ở Sài Gòn trước 75, trong phần nói về Việt Nam cận đại, tôi thường thấy các nhà sử học miền Nam hồi ấy dành khá nhiều giấy mực cho việc phân tích công việc của người Pháp ở Việt Nam từ 1884 tới 1945, trong đó bao giờ cũng có một phần đặc biệt viết về bộ máy cai trị của người Pháp, lại có những đoạn viết riêng cho những vị toàn quyền, khâm sứ, thống đốc… người Pháp, để ghi nhận rằng họ đã có tác động đẩy nhanh sự tiến bộ của xã hội Việt Nam.
Sử học xã hội chủ nghĩa khi phân tích quá khứ cũng như hiện tại thường không chú ý đến vai trò cá nhân mà chỉ nói chung về vai trò của tập thể.
Trong khi đó cả ở khoa lịch sử Trung Hoa lẫn khoa lịch
sử phương Tây, không phải các sự kiện mà chính con người trước tiên là các nhân
vật đứng đầu bộ máy quản lý xã hội mới thường được dành cho những trang những
dòng phân tích hết sức kỹ lưỡng.
Trở lại với tình hình ở ta, có hai cuốn sử gần đây,
tôi đọc được mà gây ân tượng mạnh, một là cuốn Nhìn lại sử Việt của Lê Mạnh Hùng, hai là Lịch sử người Việt của K.W Taylor. Cả hai cuốn trong khi viết về lịch
sử Việt Nam hai mươi thế kỷ qua, đều nhắc nhở đến những cái tên đọc lên nhớ
ngay tới từng giai đoạn phát triển trong quá khứ.
Riêng về thời Bắc thuộc, tôi thấy trong khi các bộ sử
được xuất bản ở Hà Nội rất ít chú ý đền hàng ngũ các quan chức Trung Quốc ngoài
những dòng kết tội họ thì K.W Taylor và nhất là Lê Mạnh Hùng đã kể ra gần như hết
được từng người một và vai trò của họ trong việc hình thành xã hội Việt thuở
ban đầu, những dòng dưới đây đều là trích từ hai sử gia này.
Cũng cần ghi nhận thêm năm 2015 NXB Đại học quốc gia
Hà Nội đã cho in cuốn Từ Điển Lịch Sử Việt Nam-Từ Khởi Nguồn Đến
938 của Vũ Văn Quân trong đó đầy đủ các mục từ về các
viên quan cai trị phương Bắc với số chữ cần thiết dành cho họ. Tức cuốn từ điển
cũng làm rõ một tình hình là người Hán nói chung các tên tuổi này nói riêng đã
đóng vai chính trên cái sân khấu đất Việt thuở ấy
---
TÍCH QUANG NHÂM DIÊN
Hậu Hán thư viết Tích Quang đã có công "dậy dỗ
dân Di khiến họ dần dần đi theo lễ nghĩa".
Còn Nhâm Diên làm thái thú quận Cửu Chân đúng vào thời
Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Hậu Hán thư chép : "Diên đến Cửu Chân dậy dân cầy
cấy, khai khẩn ruộng nương, khiến bách tính no đủ. Lại dân Lạc Việt không biết
phép giá thú, đều theo dâm hiếu, không thành lứa đôi, không biết đạo cha con, không
biết đạo vợ chồng. Diên bèn đưa thư xuống các huyện khiến đàn ông từ 20 tuổi
cho đến 50 tuổi đàn bà từ 15 đến 40 tuổi phải theo tuổi tác mà lấy nhau. Ai nghèo
không có tiền làm đồ sính lễ thì khiến từ các trưởng lại trở xuống phải bớt bổng
lộc ra để chẩn cấp. Người ta cưới nhau cùng một lúc đến hơn hai nghìn người.
Năm đó mưa thuận gió hòa, mùa màng phong đăng, người sinh con mới biết giống
nòi, mới biết tộc họ. Nên đều nói rằng "khiến ta có được như thế này là nhờ
ngài Nhâm vậy". Nhiều người đặt tên con là Nhâm. Theo Từ điển Vũ Văn Quân,
Tích Quang Nhâm Diên là những người mở ra quá trình đưa Nho giáo vào xứ ta, một
việc mà về sau Sĩ Nhiếp sẽ nâng lên một tầm vóc mới.
MÃ VIỆN (14 TCN -49)
Tô Định là viên thái thú Giao Chỉ cai trị quá tàn ác dẫn
đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng còn Phục Ba tướng quân Mã Viện là người được cử
đi ổn định tình hình. Trong bài biểu của gửi về triều đình, Mã Viện mô tả Tô Định
là người mà "thấy tiền thì giương mắt lên; thấy giặc thì nhắm mắt lại, sợ
chinh chiến..." (Hậu Hán Thư - Mã Viện Truyện) tức là môt kẻ vừa tham lam
lại vừa hèn nhát.
Nhằm xóa bỏ đến cả ký ức các bộ tộc cũ, Mã Viện cũng đã sửa đổi lại ranh giới các huyện, sáp nhập những huyện nhỏ lại với nhau và chia những huyện lớn ra. Theo Thủy Kinh Chú, Mã Viện đã "định lại các quận huyện và đặt lệnh trưởng".
Nhưng điều quan trọng nhất mà Mã Viện làm khiến cho xã
hội dân Lạc thay đổi hẳn cục diện là buộc dân Lạc thay đổi những tập tục cũ của
mình để theo Hán.
Hậu Hán Thư - Mã Viện truyện chép:
"Viện tâu rằng luật Việt và luật Hán khác nhau
hơn mười chuyện, nay xin làm sáng tỏ cựu chế đối với người Việt để ước thúc họ.
Từ đó về sau Lạc Việt tuân theo việc cũ của Mã tướng quân".
Tất cả các họ của
Việt Nam cho đến nay, đều là những họ xuất phát tại Trung Quốc. Nếu Mã Viện bắt
dân Lạc phải có họ để phân biệt "tính" (họ) và "thị" (tên)
thì điều này cũng không phải là lạ.
Mười điều khác biệt đó cũng chứng tỏ rằng xã hội Lạc đến lúc đó phần nào đã là một xã hội có tổ chức và có những phong tục tập quán riêng của mình mà dù bị giải thể cũng không hoàn toàn mất đi.
Khi thiết lập chính quyền Hán tại các huyện của Giao
Chỉ và Cửu Chân, Mã Viện không thể nào dùng toàn người Hán được. Viện bắt buộc
phải dùng những quý tộc Lạc cũ, có thể là những người đã bỏ Bà Trưng để theo Mã
Viện hoặc là những người đầu hàng sau khi Bà Trưng thất bại. Điều đó giải thích
câu "xin làm sáng tỏ cựu chế để ước thúc họ". Chắc hẳn khi nói vậy Mã
Viện đã đưa ra một đề nghị với các Lạc tướng rằng hãy tuân thủ các luật pháp của
đế quốc Hán để đổi lại sự khoan hồng của Hán triều và cho tiếp tục phụ vào việc
cai trị.
SĨ NHIẾP (137- 126)
Ông từng có lúc cai quản bảy quận Giao Châu. Sách Từ Điển Lịch Sử Việt Nam-Từ Khởi Nguồn Đến 938 của Vũ Văn Quân ghi trên thực tế Sĩ Nhiếp cai trị Giao Châu như một triều đình riêng.
Các thế
hệ người Việt sau này đều nhớ tới ông như ông tổ về giáo dục. Ông cho xây dựng
trường học và khuyến khích tranh biện sôi nổi giữa các trí thức tụ họp quanh
ông, bao gồm cả Nho sĩ, Đạo sĩ và Phật tử. Khoảng một trăm học giả chạy trốn
khi nhà Hán sụp đổ, tị nạn nơi Sĩ Nhiếp.
Người Việt Nam sau này vẫn gọi ông là Sĩ Vương còn giới
giáo dục gọi ông là An Nam học tổ.
Sĩ Nhiếp cũng là người quy tụ các nhà sư, và được
cho là có công xây dựng những ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Việt Nam. Sự tích
Phật giáo được truyền vào ở Việt Nam đã liên hệ ông với hiện thân đầu tiên của
Phật trên đất này. Sau khi Sĩ Nhiếp mất, ông còn được cho là có khả năng bất tử
của Đạo sĩ.
Phụ lục
Bạn nào cần có thể đọc thêm trên mạng
Danh sách người đứng đầu lãnh thổ Việt Nam
thời Bắc thuộc
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_sách_người_đứng_đầu_lãnh_thổ_Việt_Nam_thời_Bắc_thuộc