https://vusta.vn/may-van-de-ve-lich-su-viet-nam-noi-chuyen-voi-gs-keith-wtaylor-p82810.html
GS K.W.Taylor đã từng đến Việt Nam trong các
chương trình hợp tác với Viện khảo cổ học, Viện Sử học và Viện Ngôn ngữ năm
1986, 1992-1994 và 1997. Ngoài nhiều bài tạp chí nghiên cứu về Việt Nam, giáo
sư có hai cuốn sách là: Sự ra đời của Việt Nam (1983)
và Khảo luận về quá khứ Việt Nam (1995).
Nhân dịp giáo sư đến thăm Tòa soạn Xưa & nay ngày 29-5-2001, chúng tôi đã trao đổi một số vấn đề về sự quan tâm của GS đối với lịch sử Việt Nam. Sau đây là nội dung cuộc trao đổi.
* Lịch sử Việt Nam
thường được cấu trúc trong sự kế tiếp của các triều đại. Những nhân vật chính
là vua, hoàng tử và triều thần. Những sự kiện chính là các cuộc xâm lăng, chiến
tranh và việc tổ chức cai trị. Nhưng điều mà tôi quan tâm hơn là ở cấp độ làng
xã, đền chùa, nông nghiệp và chợ búa. Ở cấp độ này, những nhân vật chính hầu
hết thường vô danh và những sự kiện chính hầu hết được ghi chép lại theo quan
điểm của người cai trị. Tuy nhiên, sức sống hàng ngày của hàng vạn con người
bình thường đã không ngừng sản sinh ra những sự kiện khiến cho cuộc sống chính
trị và văn hóa chuyển theo những chiều hướng mới.
Thí dụ, chúng ta đều rất quen thuộc khi đọc
những lời ca ngợi những công tích thời Hồng Đức của vua Lê Thánh Tông vào cuối
thế kỷ XV. Thế nhưng, ít khi chúng ta được đọc một sự lý giải xác đáng về việc
tại sao chỉ mấy năm sau đấy những thành tựu đó lại tan tành dưới áp lực của các cuộc nổi dậy nông dân và việc tranh giành
giữa các dòng họ có thế lực.
Liệu
chúng ta có thể hiểu ra việc tại sao triều Lê lại sụp đổ nhanh chóng trong thế
kỷ XVI?
Liệu chúng ta có thể hiểu được tại sao hàng
ngàn nông dân lại đi theo Trần Cảo khi ông chống lại triều Lê trong nhiều năm
trời? Liệu chúng ta có thể hiểu tại sao họ Mạc lại có tiếng tăm ở vùng đồng
bằng sông Hồng đến thế?
Để giải đáp những câu hỏi này, chúng ta cần
phải suy nghĩ đến các làng xã và đền chùa, về những người dân quê và các nhà
sư, và cả về các thương nhân.
Lịch sử Việt Nam bao hàm những dòng chảy đa dạng
về tri thức và tôn giáo. Ngoài đạo Khổng mà nhà Lê và nhà Nguyễn đề cao, Phật
giáo cùng với Đạo giáo, việc thờ Mẫu và Công giáo và nhiều tư tưởng khác rất
thịnh hành ở các làng quê.
* GS phát hiện ra những đặc điểm này của lịch
sử Việt Nam từ lúc nào, và vì những lý do gì?
* Những suy nghĩ của bản thân tôi về lịch sử Việt Nam bắt đầu có
sự thay đổi khi tôi học để đọc được một số những bản Nôm đang còn đến nay.
Tôi bắt đầu hiểu ra rằng tại sao hầu hết các
nhà cai trị lại nghi ngại việc viết chữ Nôm.
Nhiều đời vua đã cấm hay hạn chế việc sử dụng
chữ Nôm.
Vào
cuối thế kỷ XIX triều Nguyễn tìm cách kiểm soát chữ Nôm bằng việc hệ thống hóa
nó và kết quả là làm cho nó càng phức tạp và khó sử dụng hơn.
Lẽ ra
chữ Nôm có thể phát triển theo cách viết đơn giản hơn để biểu thị cách phát âm
của từ như đã diễn ra tại Nhật bản và Triều Tiên.
Nhưng ở
Việt Nam, sự can thiệp của các triều đại đã đẩy chữ Nôm thành thứ văn tự biểu
nghĩa một cách cầu kỳ và rối rắm.
Thế nhưng hai thế kỷ sau thì chiều hướng lại
ngày càng trở nên phức tạp hơn và chữ Nôm đã không phát triển ngoài lớp đồ nho.
tại sao? Chúng ta có thể ức đoán rằng những ông đồ Việt Nam liên kết với các
triều vua không muốn nới lỏng độc quyền của họ về chữ viết.
Do vậy họ chuộng cách viết chữ Nôm vẫn tương
đối khó tiếp cận với dân thường và tiếp tục phức tạp hóa những yếu tố ngữ âm
bằng các yếu tố tượng trưng.
Sự sụp đổ đột ngột của quyền lực triều đình
đầu thế kỷ XVI thừa nhận cuộc nổi dậy rộng lớn của nông dân có thể nói cho ta
hay rằng những thành tựu rất được ca ngợi của việc cai trị thời Hồng Đức trong
thực tế là rất mong manh và không dựa vào văn hóa làng.
Bất chấp điều này, chữ Nôm tiếp tục được phức
hợp hóa theo biểu hiện ngày càng tượng trưng, hơn là được giản lược hóa theo
hướng văn tự gần với phát âm hơn.
Các ông đồ nho vẫn tiếp tục canh giữ ranh giới giữa người có chữ với dân thường.
* Như vậy, theo giáo sư có hay không mâu thuẫn
giữa văn hóa của tầng lớp thống trị với văn hóa của dân gian bắt đầu từ nhà Lê?
* Thí dụ về chữ Nôm
gợi ra rằng ở Việt Nam văn hóa cung đình và văn hóa làng xã cần được hiểu theo
những cách khác nhau.
Ở cung đình, điều ưu
tiên là thống nhất và tập quyền, là khẳng định sự kiểm soát đối với làng xã.
Ở làng xã, điều ưu
tiên là ra sức bảo vệ quyền tự trị địa phương chống lại sự can thiệp của chính
quyền Trung ương.
Chẳng có gì bất ngờ hay đặc biệt về điều này.
Đấy là một trải nghiệm
chung trong lịch sử nhiều quốc gia. Điều đáng chú ý về Việt Nam là vai trò của
đạo Phật, tôn giáo dân gian và Công giáo trong việc tổ chức đời sống văn hóa
của làng xã và các thị tứ.
Đời sống văn hóa cấp
địa phương này rất sống động và đa dạng.
Ngược lại với chính
sách các vua nhà Lê trong thế kỷ XV, thái độ của các vua đời Lý, Trần đối với
làng xã lại rất cởi mở.
Là những người theo
đạo Phật, họ chống lại sự phân đôi giữa họ và dân thường.
Chừng nào không có nổi
loạn, các làng xã được tự do phát triển đời sống văn hóa tự trị của mình.
Tuy nhiên, sau khi bị
nhà Minh xâm chiếm vào đầu thế kỷ XV, khi các chùa chiền bị phá dỡ và việc giáo
dục đạo Nho được đẩy mạnh, các vua nhà Lê mang một thái độ ông thầy đối với văn
hóa làng xã và muốn cải cách nó cho phù hợp hơn với tư tưởng Nho giáo.
Cũng vậy, với việc
bành trướng quân sự vào phía Nam, triều Lê muốn ngăn chặn ảnh hưởng của văn hóa
Chăm thâm nhập vào các làng quê Việt Nam. từ thế kỷ XVII.
Nhưng họ không ngờ sau
khi bị bắt, các tù nhân người Chăm được tái định cư ở nhiều địa phương và họ đã
có những đóng góp có ý nghĩa vào sự phát triển của văn hóa làng và tôn giáo dân
gian.
Cố gắng của thời Hồng
Đức nhằm đưa những tư tưởng Nho giáo vào công việc cai trị và xã hội Việt Nam
từ phương Bắc (Trung Hoa) là nhằm chuyển hướng văn hóa làng xã theo cách để các
nhà cầm quyền dễ dàng giám sát và kiểm soạt hơn.
Tuy vậy, nỗ lực này
chỉ đơn giản làm xa cách nhà cai trị với sức sống của dân chúng .
Điều đáng chú ý là trong số 125 nhân vật lịch
sử được kể ra trong Thoát hiên vịnh sử thi tập mà
Đặng Minh Khiêm viết ra hồi đầu thế kỷ XVI, không có ai thuộc về triều đại nhà
Lê.
Hầu hết là thuộc đời Trần, nhiều người thuộc
đời Lý và số còn lại thuộc về các thời trước nũa.
Cách xử lý theo kiểu Đặng Minh Khiêm về thời
đại nhà Trần đã nói lên điều mà chúng ta có thể hình dung ra rằng đó chính là
những cảm nhận của hàng ngàn nông dân đi theo ngọn cờ khởi nghĩa của Trần Cảo,
vốn là một nhà lãnh đạo Phật giáo và tự xưng là thành viên của hoàng gia nhà
Trần.
Đặng Minh Khiêm sống vào những năm có cuộc
khởi nghĩa của Trần Cảo.
Là một người có học, rõ ràng ông không thể
đồng ý đi theo người cầm đầu nổi loạn, và ông vẫn trung thành với vị vua tích
cực bấy giờ của triều Lê, chọn việc đi theo vua khi nhà vua trốn chạy vào vùng
sơn cước.
Nhưng đồng thời ông lại viết ra một cuốn sách
ca ngợi những con người thời nhà Trần, đồng thời lại bỏ qua những người thời
nhà Lê.
Các vua đời Trần có tiếng là những người nhiều
cảm tình và gần gũi với dân làng nhưng các ông vua nhà Lê lại tìm mọi cách để
cách biệt họ với các làng xã và thay đổi lối sống của các làng xã.
Một khía cạnh khác là
trong khi các vua Trần xuất xứ từ đồng bằng sông Hồng thì các vua đời Lê trong
thế kỷ XV xuất xứ ở Thanh Hóa.
Trong thế kỷ XVI cuộc
sống làng xã ở lưu vực sông Hồng ổn định dưới sự cai trị của nhà Mạc vốn xuất
xứ từ đồng bằng sông Hồng và khuyến khích Phật giáo và tôn giáo dân gian.
Thanh Hóa lại có một
nền tảng văn hóa và dân tộc khác với đồng bằng sông Hồng, nơi mà Phật giáo cắm
rễ kém hơn trong nhiều thế kỷ và dễ chấp nhận các tư tưởng Nho giáo về cai trị
hơn.
Khi các dòng họ Lê-Trịnh
từ Thanh Hóa chinh phục được đồng bằng sông Hồng vào cuối thế kỷ XVI, họ đã
thận trọng tránh dùng những chính sách can thiệp quá đáng vào công việc của
làng xã như đã từng áp dụng bới các vua Lê trong thế kỷ XV.
* Vậy những nguyên nhân gì đã dẫn đến sự cách biệt giữa văn hóa triều đình và văn hóa làng xã từ thế kỷ XV?
* Chúng ta cũng có thể ức đoán rằng các vua đời Lê trong thế kỷ XV
theo đuổi chính sách tích cực của họ đối với làng xã là do tình hình nhiễu
nhương thời nhà Minh đô hộ và do nhu cầu tổ chức lại đời sống làng xã sau những
năm bị ngoại bang chiếm đóng và chiến tranh.
Trong khi đó, vào thế
kỷ XVII và XVIII, dân chúng tiếp tục phát triển đời sống văn hóa của mình chung
quanh những chùa chiền, đền miếu và sau này là nhà thờ.
Thương mại và các thị
tứ cũng như nông nghiệp là những yếu tố quan trọng trong công việc nuôi dưỡng
đời sống văn hóa này.
Các thương nhân cũng tạo nền tảng kinh tế cho
tôn giáo dân gian.
Tại những trung tâm
thương mại địa phương và dọc các tuyến đường thương mại chính, những đền chùa
lớn được xây cất và những khuynh hướng tôn giáo mới xuất hiện.
Phật giáo được hoằng
dương, việc thờ cúng những vị thần mới như Liễu Hạnh lan rộng, việc thờ cúng
những vị thần chính thức hơn như Trần Hưng Đạo được chú trọng hơn trước, và
Công giáo đã có mặt ở nhiều địa phương.
Trong nhiều năm tôi đã
quan tâm đến triều đại nhà Lý. Những ông vua trong thế kỷ XI rất gần gũi với
văn hóa làng xã.
Họ bỏ nhiều thời gian
đi khắp đất nước, thăm các đền chùa và làng mạc.
Họ khảo sát những vị
thần địa phương và không chỉ tôn thờ những vị thần này mà thường còn xây đền
miếu cho họ ngay tại Thăng Long.
Các vị vua này theo
đạo Phật, mà Phật giáo lúc bấy giờ cắm rễ sâu vào văn hóa lãng xã và cả vào
trong việc thờ cúng những thần thánh địa phương.
Sau này các sử gia đạo
Nho đã chỉ trích các vua Lý là quá mê tín, nhưng cái mà các sử gia này gọi là
mê tín có lẽ đơn giản chỉ là tinh thần sáng tạo của nhân dân được thể hiện qua
những hình thức nghi lễ cộng đồng.
Các vua nhà Lý hiểu
tầm quan trọng của những hình thức các tập tục xã hội dân gian đó và đã khôn
khéo tham dự. Họ đã xác lập một nền tảng văn hóa chính trị cho một vương quốc
kéo dài trong 400 năm.
Thật vậy, cũng như mọi
chế độ chính trị, vào lúc bắt đầu thế kỷ XIII, cấu trúc vương triều nhà Lý cuối
cùng đi đến điểm phân rã. Những người cầm đầu dòng họ nhà Trần đã tạo ra một
phương thuốc chữa chạy sự bế tắc của hệ thống chính trị đời Lý và duy trì một
thái độ khoan dung và mềm dẻo đối với văn hóa làng giống như thời nhà Lý.
Tuy nhiên sự sụp đổ
của sự cai trị triều đại nhà Trần vào cuối thế kỷ XIV lại trùng hợp với sự hưng
thịnh của triều đại nhà Minh ở Trung Hoa.
Rốt cuộc vào thế kỷ XV
các vua nhà Lê đáp ứng những tư tưởng “hiện đại và duy lý hơn” của Nho giáo đến
từ Trung Hoa thời Minh với việc coi văn hóa làng xã là một vấn đề mà không phải
là một bệ đỡ, từ đấy một khoảng cách
đáng kể giữa vua với làng xã bắt đầu nới rộng.
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, các vua nhà Lê và
nhà Nguyễn liên tiếp ban hành sắc chỉ nhằm thay đổi cấu trúc tinh thần và xã
hội của đời sống làng xã như thể cách sống chi phối các dân làng là một mối đe
dọa đối với quyền lực của họ.
Thái độ này về cơ bản
rất khác với thái độ của các vua đời Lý và đời Trần, những người tán thành và
tôn trọng văn hóa làng xã.
Các vua nhà Lý đã xa
xưa với chúng ta, nhưng khám phá và xây dựng một ký ức có ích về họ là một
nhiệm vụ đặt ra không những đối với các học giả mà với các nhà lãnh đạo chính
trị và dân thường nữa.
Sự lãnh đạo sáng tạo
của họ gồm sự kết hợp quyền lực chính trị trung ương với văn hóa làng xã đã
không được nhiều người hiểu ra. Những thành tựu của họ vẫn đáng để cho chúng ta
ngày nay xem xét.