*Do sức khỏe hạn chế, tôi chỉ có thể
trích từ trong lưu trữ cá nhân một số đoạn sưu tầm sau mà không thể làm các
việc cần thiết khác, mong các bạn lượng thứ.
1/
Dịch từ chữ intellectuel trong từ
điển Pháp, “Trí thức” là “người quan tâm đến công việc não bộ vì thị hiếu hay
vì nghề nghiệp”. Theo học giả Trung quốc Hồ Thu Nguyên “trí thức là người hiểu
trước, biết trước (tiên tri, tiên giác) rồi đem sự học hỏi của mình công hiến
cho tiến bộ nhân loại, xã hội và dân tộc.”
Hy Lạp cổ xưa dùng danh từ triết gia
(philosopher) hay ngụy biện gia (sophist) trong khi La Mã thì gọi trí thức là
nhà tư tưởng (idéologue).
Trung Hoa còn áp dụng cho trí thức
nhiều danh xưng khác như Nho, Sĩ, Thánh, Hiền, Văn nhân hay “Độc thư nhân”
(người đọc sách).
....
Phác họa một hình dạng rõ rệt cho
con người trí thức phức tạp hơn việc định nghĩa.
Có cấp bằng hay tự học (autodidacte)
đều có thể được coi là trí thức. Trong sử sách, nhiều bậc Thầy không có bằng
cấp chi hết.
Mặt khác, người trí thức không bị
buộc phải thuộc giai cấp, tuổi tác hay phái tính nào, có mức sống ra sao hay
làm nghề nghiệp gì. Tại các nước chậm tiến, tùy trình độ địa phương, những phần
tử, với sức học bổ túc, vẫn được tôn xưng là trí thức.
Chữ “intellectuel” không tìm thấy
trong tự điển Larousse 1866-1878 hay Đại Bách khoa 1885-1902.
Trong quyển Vocabulaire
Philosophique của Lalande chỉ thấy ghi intellectualisme mà thôi.
Năm 1906, một số chính trị gia và
văn nhân tại Pháp gồm có Léon Blum, Émile Zola, Anatole France, Daniel Halévy…
ký chung một đơn khiếu nại đòi phục hồi danh dự cho cựu Đại úy gốc Do thái
Dreyfus bị kết án sai.
Thủ tướng George Clémenceau gọi văn
kiện này “Bản tuyên ngôn của các người trí thức - Le Manifeste des
Intellectuels ”.
Kể từ đó, danh từ intellectuel trở
nên thông dụng.
Dù sao, vấn đề trí thức vẫn có từ
ngàn xưa nhưng luôn luôn gắn liền và biến đổi với lịch sử.
Đúng vậy, dân tộc nào cũng có tạo ra
một mẫu người lý tưởng, dưới danh xưng khác nhau và do bản tính hay hoàn cảnh
địa lý hun đúc nên.
Ví dụ:
Quân tử ở bên Tàu,
Chính nhân L’honnête homme ở Pháp,
Võ sĩ Samourai ở Nhựt,
Nhà thánh thiện Mahatma ở Ấn Ðộ,
Người thanh lịch Gentleman tại Anh
quốc,
Siêu nhân Superman ở Đức,
Hiệp sĩ Chevalier ở La Mã,
Nhà Hiền triết hay Le Sage ở Hy Lạp,
Người cán bộ Apparatchik ở Nga,
Nhà Kinh tài Businessman ở Mỹ…
Còn đối với dân tộc ta, mẫu người lý
tưởng thường được gọi là Trai Anh Hùng, Gái Hào Kiệt.
Người trí thức Việt Nam, theo quan
niệm cổ truyền, cần có căn bản học thức vững, không ngừng học hỏi và xử thế
theo đạo lý, nghĩa là sáng suốt phân biệt đúng sai và phải trái.
Yếu tố “tác phong” được xếp vào hàng
đầu trong xã hội VN vốn trọng đạo đức.
Người trí thức chính danh không
trung lập trước cái thiện và cái ác.
Không khiếp nhược nín lặng khi phải
lên tiếng phản đối vì nín lặng cũng là một ý kiến, một thái độ. Thái độ của kẻ
hèn.
Khoa bảng hay chuyên gia, với túi
đầy bằng cấp, mà bất xứng thì không được xem là người trí thức.
Danh từ cao quý “trí thức” lắm khi
bị bôi bẩn bởi những người ngụy trí thức, trí thức thời cơ, trí thức tháp ngà,
trí thức yếm thế, trí thức trưởng giả xa-lông.
Sĩ phu ở một cấp cao hơn trí thức
trong lòng quý mến và kính nể của quần chúng vì họ dấn thân cho đại nghĩa,
không màng lợi danh và luôn luôn gắn liền sinh mệnh cá nhân với sự tồn vong của
Đất nước.
Sự khác biệt giữa khoa bảng, chuyên
gia, trí thức và sĩ phu là sĩ phu chẳng những có học vấn căn bản (schooling) và
giáo dục bản thân (education) - như ba nhóm kể đầu - mà còn có thêm quyết tâm
sống chết cho chính nghĩa quốc gia (nationalist engagement / nationalist
dedication),
Tại triều đình, thời vua chúa, kẻ sĩ
đứng hàng thứ năm sau các tước: khanh, tướng, thượng đại phu và hạ đại phu
nhưng trong dân gian, kẻ sĩ được xếp hạng trên ba giới nông, công và thương.
Theo khoa bói toán cổ xưa, phần tử
trí thức có giỏi vẫn thua người số tốt, vận tốt, mồ mả tốt và âm đức tốt (Nhất
mệnh, Nhị vận, Tam phong thủy, Tứ âm công, Ngũ độc thư).
Kẻ sĩ không để cho sự mê tín lung
lạc. Cuộc đời như một mảnh lụa đào trinh bạch. Con người là nghệ sĩ, vẽ tùy
thích nhưng phải gánh trọn trách nhiệm về bức họa do mình tạo ra.
Khi thầy Tử Lộ hỏi thế nào là kẻ sĩ,
Khổng Tử đáp: "Trước hết, phải có biết xấu hổ khi làm điều quấy. Thứ đến,
hiếu thảo với mẹ cha và chung thủy với bạn bè. Sau cùng, kết hợp tư duy và hành
động, sự biết và cách sống".
Đức Khổng còn vẽ ra một road map bốn
giai đoạn cho kẻ sĩ noi theo: tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ (tức
rèn luyện bản thân, quản trị tốt gia đình, ổn định xứ sở và phục vụ thế gian).
Trong xã hội dân sự văn minh ngày
nay kết hợp chính trị, văn hóa, kỹ thuật và kinh tế một cách phức tạp, cái lộ
trình cổ điển vừa nói còn giữ nguyên giá trị.
Trên đây là phần đầu bài nói chuyện
ngày 25.8.2002, có ghi âm,
của Luật sư Lâm Lễ Trinh,
Chủ bút tạp chí Anh-Pháp
Human Rights / Droits de l’Homme,
theo lời mời của Viện Việt Học, Institute of
Vietnamese Studies,
tại 15355 Brookhurst Street, Westminster, Orange County, Californie.
Đã được đưa lên mạng dưới tiêu đề
Sĩ phu thời xưa và kẻ sĩ ngày nay cuộc khủng
hoảng của trí thức Việt Nam
2/
Leslie Triệu:
Ở buổi ra mắt Soul Mountain, mấy chữ
đầu tiên anh nói: "Là một người trí thức". Vậy, một người trí thức là
gì?
Khi đọc Soul Mountain (Linh Sơn) và
One Man's Bible (Thánh Kinh của Một Người) tôi cảm thấy anh có một ý thức mạnh
mẽ chính anh là một người trí thức.
Thế hệ của anh đã kinh qua đủ loại
khổ hình, thế nhưng tôi có cảm tưởng rằng ý thức bản thân như một trí thức của
anh nó không giảm bớt mà thực sư đã trở nên mạnh mẽ hơn.
Anh trở nên ý thức mãnh liệt rằng
như một trí thức anh phải ứng xử những cách thế nào đó chứ không chỉ an tâm tồn
tại là đủ.
Cao Hành Kiện:
Khái niệm người trí thức đáng được
bàn tớị
Có một sự khác biệt giữa khái niệm
về kẻ trí thức ở Tây phương và kẻ trí thức trong cách định vị ở Trung Quốc.
Ở Hoa Lục, ai qua được ngưỡng cửa
đại học thì được xem là kẻ trí thức.
Tây phương thì khác. Giới trí thức
không thường bao gồm những người tốt nghiệp đại học hay cao học ở lĩnh vực khoa
học kỹ thuật, dù rằng họ có khả năng tri thức cấp caọ
Những thẩm phán không được gọi là
người trí thức - họ là những professional, giới có chức nghiệp.
Trí thức là những người đưa ra tư
tưởng, những triết gia.
Chỉ có những người dấn thân vào lĩnh
vực tư tưởng xã hội một cách độc lập và lĩnh vực sáng tạo mới được gọi là trí
thức.Ho viết những tác phẩm phản ảnh tư tưởng, và họ nói cùng xã hộị.
Sự xuất hiện của giới trí thức hiện
đại có lẽ khởi đi sau cuộc Cách Mạng Pháp. Họ là những cá nhân tư duy độc lập,
nằm ngoài giới quyền quí, không lệ thuộc vào một chế độ quyền lực nào, họ tham
dự vào xã hội và lên tiếng trước những vấn đề xã hộị.
Lấy Emile Zola làm một thí du:những
gì ông ta nói không đại diện cho quyền lợi của một phe nhóm chính trị nàọ
Ông ta đưa ra hệ ý thức cá nhân của
chính ông.
Có những nghiên cứu kinh viện của
giới học gỉa và tư tưởng không có liên hệ trực tiếp tới chính trị hay những vấn
đề xã hội trước mắt.
Nhưng họ có toàn quyền tự do tham
dự.
Ấy là điều kiện tiên quyết và tuyệt
đối quan trọng.
Sự chào đời của trí thức Trung quốc
diễn ra vào thời điểm phong trào Mồng Bốn Tháng Năm.
Tôi không nghĩ đã có giới trí thức
trong xã hội cổ của Trung Quốc.
Chỉ có những người đỗ đạt trở thành
quan chức (scholar-official).
Nhưng giới trí thức ngày nay đang
đối mặt với một thách thức, bởi vì trong quá khứ tất cả họ đều thuộc về cánh
tả, họ là những người đòi cách mạng.
Ở cuối thập niên vừa rồi, khi Bức
Tường Bá Linh sụp đổ, thế giới lý tưởng ngã về không tưởng (utopian idealism)
của họ không còn đứng vững, và vai trò phát ngôn mà giới trí thức hiện đại tự
đảm lãnh trong quá khứ bị vấn xét.
Từ quan sát của tôi, giới trí thức
Pháp dường nhận thức điều này tương đối sớm sủa, đã bắt đầu tự mổ xẻ vấn đề ấỵ
Trong lịch sử hiện đại, giới trí thức đã có một ảnh hưởng lớn lao lên xã hội,
câu hỏi lúc này là, họ sẽ có ảnh hưởng gì trong tương lai ? Đây là một câu hỏi
mới, lý thú.
Trích từ bài Cao Hành Kiện Hành trình một ngày dài của Leslie Zhao Thường Quán
dịch
3/
Trí thức là người nuôi dưỡng, bảo
vệ, truyền bá những giá trị phổ quát của nhân loại và sử dụng chúng như những
trung giới trong các quá trình vận động biện chứng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của
xã hội.
Với quan niệm đó, khái niệm trí thức
chỉ có ý nghĩa khi xem xét dưới lăng kính xã hội, và người trí thức chỉ thực sự
xuất lộ khi sử dụng các đặc trưng cơ bản của mình: tri thức chuyên môn, khả
năng cảnh báo và định chuẩn, để thực hiện vai trò xã hội của chính mình.
“Trí thức là gì?” là vấn đề gây
tranh cãi từ lâu. Cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục. Bằng chứng
của điều này là hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau về trí thức đang tồn
tại:
trí thức là người lao động trí óc,
trí thức là người có học,
trí thức là người khám phá và truyền
bá tri thức,
trí thức là người tích cực tham gia
phản biện xã hội,
trí thức là người dẫn dắt xã hội,
trí thức là lương tâm của xã hội,
trí thức là người không để cho xã
hội ngủ v.v…
Thậm chí, triết gia người Pháp
Jean-Paul Sartre còn đưa ra một định nghĩa tuy bề ngoài có vẻ hài hước, nhưng
rất khó bác bỏ: trí thức là người thích làm những việc chẳng phải của mình!
***Người
sưu tầm quên ghi nguồn.
4/
Người trí thức, như tôi hiểu, không
phải là người làm hòa dịu, cũng không phải là người tạo dựng sự đồng thuận, mà
là người dấn hết thân mình, hứng mọi hiểm nguy, luôn luôn lấy phê phán làm cơ
sở;
trí thức là người từ chối, dù phải
trả với giá nào, những công thức dễ dãi, những tư tưởng nhàm cũ, những kết luận
chiếu lệ nơi lời nói và hành động của những người có quyền hoặc của những đầu
óc máy móc.
Đâu phải họ chỉ từ chối một cách thụ
động mà thôi: họ còn tích cực, công khai nói lên tiếng nói của họ.
Lựa chọn cốt yếu mà người trí thức
phải đối phó là: hoặc liên minh với sự bền vững của người thắng trận, người
đangchế ngự xã hội, hoặc - và đây là con đường khó khăn nhất - xem sự bền vững
đó như đáng cảnh báo, như một tình thế có cơ nguy đưa người yếu và người thua
cuộc đến chỗ diệt vong.
Nghĩ đến kinh nghiệm lệ thuộc của kẻ
yếu và kẻ thua, người trí thức không quên những tiếng nói và những con người đã
bị lãng quên.
Edward Said Về trí thức và quyền lực
(Edward W. Said, Des intellectuels
et du pouvoir, Paris, Seuil, 1996)
Trích từ bài của Cao Huy Thuần trên trang mạng
https://huongsenviet.blogspot.com/2009/05/gs-cao-huy-thuan-co-mot-nguoi-tri-thuc.html?fbclid=IwAR0vf2c7xi-DO7mjHh8COoxTEpBXdZHzXFXJhxT3BTEp9NpkEACwzxyFYFY