Trong cuốn sách mỏng Việt Nam văn hóa sử đại cương học giả Đào Duy Anh viết hồi 1950 khi đang kháng chiến chống Pháp và hiện nay vẫn còn lưu ở thư viện Khoa học xã hội tôi có chú ý riêng tới những luận điểm của ông về tình trạng Hán hóa là điều chúng ta còn đang tranh cãi và nhiều phần hiểu chưa đúng. Xin trích lại dưới đây. Cuối đoạn trích sẽ có thêm phần phụ lục.
GIỚI HẠN CỦA SỰ HÁN HÓA
Việt Nam văn hóa sử đại cương
Việt Nam văn hóa sử đại cương
MỤC LỤC
Thay tựa
CHƯƠNG I. – Thời kỳ Lạc Việt.
1 – Nguồn gốc truyền kỳ.
2 – Người Lạc Việt.
3 – Văn hóa Lạc Việt.
CHƯƠNG II. – Thời kỳ Bắc thuộc.
1 – Cuộc Bắc thuộc và sự kinh lý
của Mã Viện.
2 – Hán hóa về chính trị và xã
hội.
3 – Hán hóa về sinh hoạt vật chất.
4 – Hán hóa về sinh hoạt tinh
thần.
CHƯƠNG III. – Thời kỳ Tự chủ.
1 – Cuộc giải phóng dân tộc.
2 – Sự kiến thiết quốc gia và xã
hội phong kiến.
3 – Sự phát triển về sinh hoạt xã
hội.
4 – Sự phát triển về sinh hoạt vật
chất.
5 – Sự phát triển về sinh hoạt tinh
thần.
6 – Giới hạn của sự hán hóa.
CHƯƠNG IV. – Thời kỳ Pháp thuộc.
1 – Sự sụp đổ của quốc gia phong
kiến.
2 – Những biến chuyển về chính
trị.
3 – Những biến chuyển về kinh tế
và xã hội.
4 – Những biến chuyển về văn hóa.
5 – Tương lai văn hóa Việt nam với
cuộc dân tộc giải phóng.
Cuộc Hán hóa của dân tộc Việt nam tuy là rất sâu xa,
nhưng xét kỹ về mọi phương diện, thì ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc phần nhiều
chỉ là thóp vào cái gốc mà thành ngành ngọn, hay là chỉ trùm phủ làm da thịt ở
ngoài, còn cái căn bản cái cốt cách thì vẫn là đặc biệt Việt nam. Cái căn bản
hay cốt cách ấy, chúng ta có thể nhận thấy ở trong những phong tục, những tín
ngưỡng của dân chúng, phần nhiều là những thói quen và những nếp nghĩ tổ tiên
xa của ta vốn có từ đời thượng cổ, đã do những phong tục, những tín ngưỡng của
người Trung hoa (đạo giáo và phật giáo) làm
thành phức tạp và có vẻ tinh vi hơn. Ví như tục chôn người chết, vốn xưa là
chôn xác những đồ minh khí bằng đất bằng đồng, từ thời Hán hóa thì những đồ
minh khí biến thành đồ giấy người ta đốt ở trên mộ và đốt trong những ngày giỗ
tết, và ngày rằm tháng bẩy là ngày xá tội vong nhân. Lại như tiếng nói là cái
gương phản chiếu tính tình và tư tưởng của một dân tộc, chúng ta thấy có lẽ
tiếng Việt nam đã mượn đến hơn một nửa của tiếng tàu và chữ hán, song chúng ta
mượn tiếng mượn lời mà vẫn nói theo giọng của ta, vẫn xếp đặt theo cú pháp của
ta, khiến ngôn ngữ ta vẫn giữ hoàn toàn tinh thần cố hữu của nó.
Lại xem âm nhạc và các lối hát chúng ta đã theo người
Hán tộc nhiều, nhưng lối ca dao và lối hát bình dân khác mà dân chúng bao nhiêu
đời đã ký thác tư tưởng và tâm tình vào, thì chúng ta thấy nó vẫn chan chứa một
cái hồn riêng của dân tộc. Suy rộng ra tất cả các phương diện văn hóa khác,
chúng ta có thể nói rằng trong cuộc hán hóa, tổ tiên chúng ta đã biết lấy cái
căn bản, cái cốt cách cố hữu mà dung hòa những yếu tố văn hóa ngoại lai.
Nhưng dân tộc ta là một dân tộc nhỏ, mà vận mệnh lịch
sử bắt phải sống ngay bên cạnh và giữa đường phát triển của một dân tộc rất
mạnh là Hán tộc, lại phải sống ở một mảnh đất, tuy phì nhiêu nhưng chật hẹp và
luôn luôn bị thiên tai hoành hành, cho nên cuộc sống khó khăn vất vả hàng ngày
đã rèn luyện cho dân tộc một cái năng lực thích ứng để có thể sống còn, năng
lực ấy đã gây cho văn hóa của ta những tính chất đặc biệt.
Tuy dân tộc ta đã tự chủ về chính trị mà uy quyền của
văn hóa Trung quốc còn mạnh mẽ hơn mười phần. Về học thuật, trong các học thuyết tư tưởng của thánh hiền, các thời
Tam đại và Hán Đường Tông, kẻ sĩ nước ta có thể tìm đủ lợi khí tinh thần để sửa
mình và làm chính trị, họ không thấy cái cần thiết phải tìm kiếm đường nào khác
nữa. Cũng có lẽ vì dân tộc ta là một dân tộc nhỏ, cái khuôn khổ sinh hoạt của
chúng ta so với Trung quốc rất là chật hẹp, cho nên vô luận là vấn đề gì về
quốc kế hay dân sinh, cũng như về luân lý hay triết lý, kẻ sĩ nước ta đều thấy
các “thánh hiền” Trung quốc giải quyết sẵn cả cho mình rồi, cái công phu của
mình chỉ là thuật lại để thực hành cho xứng đáng, chứ không cần sửa chữa thêm
thắt chút gì. Trái lại, cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá,
thì chúng ta lại phải hãm lại, co lại cho vừa với kích thước khuôn khổ chật hẹp
của chúng ta, cho nên kẻ sĩ của ta có học cao lắm thì cũng chỉ là học những
điều thực tiễn về luân lý và chính trị trong tư tưởng học thuyết của nho gia
thôi. Câu nói của La sơn phu tử là một kẻ sĩ có tiếng bực nhất ở thời Lê mạt :
“Cái đạo học của thánh môn thì đã có sách của Liêm Khê, Minh Đạo, Y Xuyên,
Hoành Cừ, Khang Tiết và Chu Văn công, bác học ước lễ, không thiếu điều gì nữa,
người sinh ra sau những bậc ấy, chỉ lo cái đạo không thi hành ra, chứ không lo
cái đạo không sáng” [1],
có thể tiêu biểu cho cái cao vọng của cả giai cấp nho sĩ thuở xưa là chỉ lo thi
hành cái đạo của thánh hiền mà thôi. Bởi thế, chính trong thời toàn thịnh của
nho học nước ta, người ta thấy có những bực nhà nho kinh luân như Tô Hiến
Thành, nhà nho anh hùng như Trần Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An, nhà
nho khảng khái như Nguyễn Trãi, mà tuyệt nhiên không thấy được một nhà tư
tưởng, một nhà triết học nào. Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để
bắt chước thánh hiền mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý, chứ không có nhà
nho nào dám hoài nghi bất mãn đạo lý xưa mà băn khoăn, khao khát đi tìm đạo lý
mới.
Có những người, sau khi làm tròn phận sự một người
quân tử ở đời thì “rũ sạch nợ trần” đi tìm nhàn hạ ở nơi thôn dã, hay có người
bất bình với thời thế khiến mình không thể làm trọn phận sự được mà đi tìm an
ủi ở sơn lâm, nhưng thảy đều là những người chỉ cần tự nhiên cấp cho những thú
thanh cao để di dưỡng tính tình mệt mỏi, hay để khuây khỏa cuộc đời ô trọc, chứ
không ai dám đem tâm trí mà tìm tòi, mà tra hỏi tự nhiên.
Xét rộng ra, chúng ta cũng thấy rằng tất cả các phương
diện của văn hóa Việt nam đều chỉ phát triển ở trong vòng ảnh hưởng của văn hóa
Hán tộc. Về nghệ thuật văn học, cũng
như về các phương diện khác, người mình đều có cái khuynh hướng thu nhỏ qui mô bắt
chước của Trung quốc để cho hợp với cái khuôn khổ sinh hoạt nhỏ bé của mình. Vì
thế mà người ta nhận thấy ở trong tất cả các môn bộ của văn hóa Việt nam một
cái tính chất chung, một cái tính chất rất tầm thường, mà lại rất là quí báu
cho ta, có lẽ nhờ nó mà một dân tộc nhỏ bé như ta, phải sống ở bên cạnh một dân
tộc đông đúc mạnh khỏe là Hán tộc, lại sống ở trong một miếng đất chật hẹp luôn
luôn bị tai trời vạ đất, thế mà vẫn sống còn, vẫn phát triển, đó là cái tính
chất thiết thực rất chắc chắn. Chúng ta không có những nhà tư tưởng xây dựng
được những công trình huy hoàng phong phú như những lâu đài Ả rập và Ba tư,
những công trình cao vót như các giáo đường gô tích, các bảo tháp Ấn độ, hoặc
những công trình đồ sộ như Kim tự tháp, Vạn lý trường thành, đến Đế thiên Đế
thích. Chúng ta chỉ cốt sống được thôi, và trong địa hạt sinh hoạt vật chất
cũng như trong địa hạt tư tưởng nghệ thuật, chỉ nghĩ đến cái gì có thể giúp cho
mình thích ứng với hoàn cảnh ác liệt để theo đuổi một cuộc sống tầm thường, kín
đáo mà thôi. Bởi thế, thỉnh thoảng, nếu có được một người nào có khí độ phóng
khoáng, không chịu ép mình làm nô lệ thánh hiền mà vượt ra ngoài vòng lề lối –
chưa nói rằng vượt ra ngoài mà đã xây dựng được cái gì mới chưa – thì xã hội đã
xem là quái vật mà không dung, hoặc giả khi có nhà nghệ thuật thực hiện được
một cái gì to lớn phi thường, như pho tượng thánh Trấn Vũ ở Hà nội chẳng hạn
thì cái mái nhà nặng nề sầm sập của ngôi đền lại đè bẹp nó xuống ở trong bóng
tối mò của gian chính tẩm. Những cái thái độ và quan niệm xuất kỳ ấy thường bị
cái tính thiết thực của dân tộc kìm hãm hay bài xích ngay.
Cái tính thiết thực ấy, chúng ta cũng thấy rất rõ ràng
trong phần văn hóa bình dân vốn phát triển ở ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp
của văn hóa Trung quốc, trong những câu tục ngữ, những câu ca dao, là văn
chương truyền khẩu phản chiếu cái tâm hồn chất phác mộc mạc của kẻ dân thường.
Hình như sống ở dưới bóng của cái khối văn hóa Trung quốc, sừng sững ỏ bên mình
như cả núi Thái sơn, văn hóa chúng ta, cho đến cả văn hóa bình dân không sống
hẳn ở trong vòng bóng ấy, chỉ cố sức để man diên ở trên mặt đất chứ không có
cái khuynh hướng trổ vọt lên trời. Để sống còn, chúng ta chỉ cốt bám chặt lấy
đất như bám lấy cái nguồn sinh khí, cho nên chúng ta không có cái vinh dự có những
tổ tiên chọc trời khuấy nước, làm chấn động thế giới bằng tư tưởng hay hành
động của mình, nhưng chúng ta lại đã may mắn có được những tổ tiên cần cù, kiên
nhẫn, biết sống thiết thực và biết tổ chức cuộc sống một cách thích đáng để đối
phó với vận mệnh khắc nghiệt của mình. Nói một cách khác, một dân tộc có cái
vận mệnh tàn khốc như dân tộc ta, chính nhờ cái tính chất thiết thực chắc chắn
ấy mà đã sống dai được và đã tránh được sự thôn tính của dân tộc Trung hoa, để
có thể mở rộng phạm vi sinh hoạt vào đất Chiêm thành và Chân lạp. Đối với thiên
hạ thì có lẽ văn hóa thực tiễn ấy chưa có cái giá trị gì đáng tự phụ, đáng khoe
khoang, nhưng đối với chúng ta thì nó đã có cái giá trị vô cùng là đã tranh đấu
được cho chúng ta sống đến ngày nay để còn tranh đấu nữa.
Cái giá trị tranh đấu chúng ta nhận thấy trong cái
tính chất thiết thực ấy lại tuồng như chỉ là tiêu cực. Ngay trong văn hóa bình
dân, cái văn hóa phát triển ở ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của Hán hóa –
trong những câu tục ngữ, câu hát ví, những câu chuyện khôi hài, những câu
chuyện tiếu lâm, những bức tranh Tết – tuy có lộ rõ cái tinh thần chống đối
luân lý lễ giáo của nhà nho, thế mà cũng chỉ là sự chống đối tiêu cực của kẻ
yếu mà thôi.
Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt nghiêm
trọng, mỗi khi vấn đề sinh tử tồn vong của dân tộc bị đặt ra một cách khẩn
thiết, ví như khi phải đối phó với cái họa bị Hán tộc thôn tính, và khi phải
tìm đường sống mới ở đất Chiêm thành và Chân lạp, thì chúng ta tất phải biết
rằng nếu không tranh đấu tích cực thì đến phải nguy vong.
PHỤ LỤC
GIỚI THIỆU MỘT CUỐN SÁCH NHỎ CỦA ĐÀO
DUY ANH
Việt Nam văn hóa sử cương (1938) là
cuốn nghiên cứu văn hóa nổi tiếng của Đào Duy Anh và tới nay vẫn được sử dụng
rộng rãi. Nhưng trong thời gian sống ở Thanh Hóa thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ông còn viết một cuốn sách nhỏ nữa mang tên Việt Nam văn hóa sử đại cương. Cuốn
sách sau này được viết trong một hoàn cảnh khó khăn nên chỉ phác ra một cái
khung lớn mà chưa triển khai đầy đủ, nhưng trong đó có một tư tưởng mới mẻ,
khiến cho chúng ta phải đặc biệt chú ý và tiếc là tác giả đã không có điều kiện
để đi đến cùng. Sau khi tìm thấy sách ở thư viện khoa học xã hội, khoảng những
năm 80 thế kỷ trước, tôi đã chuyển tài liệu này tới nhà nghiên cứu Đào Hùng là
thứ nam của cụ Đào Duy Anh, nhưng một thời gian sau vẫn không thấy anh Đào Hùng
nói gì. Lúc đó tôi chưa thật hiểu, nhưng nay sau 40 năm đọc lại mới vỡ lẽ ra
rằng sở dĩ anh Hùng làm vậy vì tập sách biểu hiện một tư tưởng nhiều phần ngược
lại với quan niệm chính thống đương thời về mối quan hệ lịch sử và văn hóa giữa
Việt Nam và Trung Hoa.
Tuy vậy tôi thấy vẫn cần phải
giới thiệu ra đây.
Thứ nhất là về phương diện lịch sử.
Chúng ta đều biết hiện tượng Hùng
Vương được miêu tả trong các tài liệu sử học chính thức như là một hiện
tượng bản địa. Nhưng trong cuốn sách trên, hiện tượng Hùng Vương
cũng như hiện tượng An Dương Vương đều có nguồn gốc phương Bắc.
Theo cách trình bày của Đào Duy Anh,
thì người Lạc Việt chính là người Trung Quốc chuyển dịch dần về phương Nam, họ
sẽ kết hợp với người Anh – đô – nê ở bản địa mà cụ Đào thường gọi là người thổ
trước để làm nên thời kỳ đầu trong lịch sử tức thời Hùng Vương vừa nói. Do bộ
phận Lạc Việt này cùng chia sẻ nền văn hóa Giang – Hoài của Trung Quốc, nên họ
đã mang tới mảnh đất này nền văn hóa Đông Sơn.
Kế đó Thục Phán tức An Dương Vương
chắc cũng là từ phương Bắc xuống đánh thắng Hùng Vương lập nên một triều đại mới,
rồi An Dương Vương lại bị Triệu Đà đánh bại, sự kiện này còn được ghi nhận bằng
câu chuyện Mỵ Châu Trọng Thủy.
Trong khoa sử học Việt Nam hiện nay,
vẫn còn tồn tại cuộc tranh luận xem Triệu Đà có phải là một ông vua nước Việt
đương thời hay không. Nhưng từ 1948, trong cuốn này, Đào Duy Anh đã
cho rằng thật ra lúc đó nhà Triệu đang tranh tài với nhà Hán và như vậy thì
hiện tượng Triệu Đà không thể thuộc về lịch sử Việt Nam được.
Sử cũ thường cho cuộc ngoại thuộc Trung
quốc bắt đầu từ cuộc chinh phục của Lộ Bác Đức nhưng thực ra thì nó đã bắt đầu
từ Triệu Đà
Từ thời các bộ lạc Lạc Việt qua hiện
tượng Thục Phán rồi tiếp đến hiện tượng nhà Triệu, trước sau mảnh đất Bắc Bộ
chỉ là vùng tranh chấp của các thế lực địa phương Trung Quốc muốn đối lập với
Bắc Kinh. Nhưng đến lần thứ tư, tức là khi quân Mã Viện của nhà Hán sang thu
phục mảnh đất cuối cùng của nhà Triệu, thì lúc này cái ý thức về một vùng đất
Việt độc lập mới nảy sinh rõ rệt trong đầu óc cả người bản địa, lẫn người mới
đến lập nghiệp. Xin nhắc lại theo cách trình bày của cụ Đào mà tôi hiểu thì
Việt Nam luôn luôn là một mảnh đất để những người Trung Quốc phương Nam muốn ly
khai khỏi trung ương tìm cách tự khẳng định. Từ một gốc chung họ muốn lập ra
một xứ riêng. Trong khi nhiều dân tộc khác chung quanh dân tộc Hán bị Hán hóa,
thì bộ phận Trung - Việt (= hỗn hợp giữa người ly khai và người bản địa) tại
nơi cực nam này (so với Trung quốc) vẫn mãi mãi sống sót và làm nên một nước
Việt Nam vươn mãi về phương Nam.
Thứ hai là về phương diện văn hóa
Các tài liệu chính thống hiện nay
đều nói rằng người bản địa khi bị xâm lược – trong thực tế là tập hợp Trung
Việt qua nhiều giai đoạn thăng trầm như trên nói - đã tồn tại trên
cơ sở giữ lấy bản sắc riêng và không chịu Hán hóa.
Nhưng trong cuốn sách nhỏ và viết
vội mà chúng tôi nói ở đây, Đào Duy Anh nói rất rõ là từ khi Mã Viện sang, công
cuộc Hán hóa đã được triển khai hết sức quy mô, bao gồm từ thời các thái thú
Tích Quang, Nhâm Diên, rồi đến Sĩ Nhiếp, chẳng qua là sự Hán hóa đó không đạt
tới khả năng là biến người dân trên đất Việt thành người Trung Quốc mà chỉ mang
lại cho người bản địa những mẫu mực để noi theo trong việc tổ chức quốc gia
cũng như xây dựng một nền văn hóa cần thiết. Về trình độ tổ chức quốc gia cũng
như xây dựng nền văn hóa con người ở đây đã đạt tới trình độ nào là việc chúng
ta cần phải nghiên cứu, nhưng rõ ràng là vẫn có một quốc gia riêng một nền văn
hóa riêng, và nước Việt cùng lắm chỉ có thể gọi là một “thành viên” của THẾ
GIỚI TRUNG HOA chứ không thể và không bao giờ gọi là một thành phần hữu cơ của
quốc gia Trung Hoa.
Vì trình độ có hạn chúng tôi chưa
thể hiểu hết và trình bày ra đây những quan niệm chi phối Đào Duy Anh, nhưng
chúng tôi cảm thấy rõ là ông có nhiều cái khác biệt với quan niệm chính thống đương
thời (và đây có lẽ chính là lý do khiến cho anh Đào Hùng không muốn công bố
cuốn sách này). Rất nhiều lần trong cuốn sách chúng tôi thấy hai chữ Hán hóa
được lặp đi lặp lại và rõ ràng là có sự phân biệt giữa việc lấy văn minh Trung
Hoa làm mẫu mực để xây dựng văn hóa bản địa và việc đưa nước Việt Nam thành một
tỉnh của nước Trung Quốc tập quyền đã thất bại. Nhưng mặt khác logic của tư
tưởng mà Đào Duy Anh theo đuổi vẫn chính là nước Trung Hoa là một điểm đối
chiếu rất quan trọng của quốc gia Việt, và trong sự hình thành và phát triển
của văn hóa Việt Nam, thì các yếu tố văn hóa Trung Hoa vẫn là yếu tố nguồn cũng
giống như văn hóa la-tinh đã là nguồn gốc của văn hóa Anh, Pháp, Ý, v...v...
Cách giải thích của Đào Duy Anh
trong cuốn sách còn viết rất sơ lược này mở ra nhiều hướng để nghiên cứu tiếp.
Riêng trong lĩnh vực ngôn ngữ, việc những danh xưng như Hùng Vương, An Dương
Vương... lâu nay đối với chúng tôi vẫn là một hiện tượng khó hiểu – tại sao có
những cái tên đặc Tầu như vậy -- thì nhờ có cách cắt nghĩa về Lạc Việt và Triệu
Đà như đã nói ở trên khiến cho dễ hiểu phần nào.
Trích lời "Thay tựa" của tác
giả
Quyển VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ ĐẠI CƯƠNG
này không phải là bản tóm tắt của quyển VIỆT NAM VĂN HÓA SỬ CƯƠNG mà chúng tôi
đã viết và xuất bản hồi năm 1938. Kể về nội dung, quyển trước chỉ là một mớ tài
liệu bề bộn chúng tôi đã sưu tập vội vàng, theo một trật tự thuận tiện. Tuy gọi
là sử, nhưng vì tài liệu thiếu sót nhiều, chúng tôi không thể chép theo diên
cách: về bố cục thì chúng tôi đã phải chia tổng thể văn hóa ra từng môn bộ và
theo phương pháp phân tích để trần thuật về mỗi môn bộ.
Một
tác phẩm sơ sài, nhiều khuyết điểm như thế, không thể nào đem toát yếu lại
được. Tóm tắt hay trích lược, thì nó chẳng còn giá trị gì, đến cái giá trị sưu
tập tài liệu nó cũng không còn nữa.
Bởi
thế nên khi viết quyển sách nhỏ này để đáp lại sự yêu cầu của Nha B. D. H. V.,
chúng tôi phải dùng phương pháp khác. Về khuôn khổ quyển sách chật hẹp quá nên
chúng tôi không thể dùng những phương pháp phân tích mà đi vào chi tiết, cho
nên về bố cục, chúng tôi đã chia ra thời kỳ để trần thuật theo con đường diên
cách của tổng thể văn hóa; ở mỗi thời kỳ, thì chúng tôi lại theo lối phân tích
mà thuật riêng về các bộ môn lớn. Phương pháp dùng trong quyển sách này có thể
xem là trái ngược với phương pháp dùng trong quyển sách trước. Nếu ở quyển
trước, chúng tôi đã phân tích nhiều hơn tổng hợp, thì có thể nói rằng ở quyển
này, chúng tôi đã tổng hợp nhiều hơn là phân tích.
....
Ở phần cuối bài này tác
giả còn trình bày ngắn gọn quan điểm của ông về văn hóa chúng tôi xin phép để
lại.