Bài viết dưới đây được viết ra bốn mươi tư năm
trước. Nó là bước đầu để tôi đi tới một vài nhận xét bi quan ngán ngẩm có khi đến mức thiên lệch ...về văn
học và các thế hệ làm văn học từ sau 1945 đến nay.
Hồi ấy chiến tranh mới kết thúc được mấy tháng.
Trong lúc nhiều bạn bè đồng nghiệp vui vẻ kéo nhau vào thâm nhập thực tế mới - đúng hơn là xả hơi một chút, hưởng thụ một chút đỡ phải nghĩ một chút - tôi sau một chuyến đi Sài Gòn ngắn ngủi hơn nứa tháng lùi về bộ phận biên tập ở nhà lo làm báo bình thường. Tôi không thấy có gì háo hức. Ngược lại một cái gì
ngược dòng cứ len lỏi dần trong tôi.
Nỗi lo cho
những ngày sắp tới nảy sinh bắt đầu ngay từ một
cảm giác đơn giản, hình như sau những ngày quá đen tối của chiến tranh nay là
lúc chúng ta bước ra ánh sáng với tất cả cái loạng quạng của những người không hiểu hết tình hình.
Những trang văn trang báo thiên về bốc đồng ca ngợi nhạt thếch không hiểu sao
vẫn làm cho cả người viết lẫn người đọc cùng vui. Tôi không gặp được những con người biết lo lắng cho những
việc lớn đang chờ đợi.
Cách nhìn
nhận bột phát của tôi không được chấp nhận. Đặt vào hoàn cảnh lúc ấy thì đó
cũng là điều dễ hiểu. Bốn chục năm trước, cách các nhà văn ở ta nhìn nhận chính
mình còn gò bó và bảo thủ lắm.
Chẳng những các cây bút đàn anh lúc trước vốn rất
thân ái với tôi đều lắc đầu, thậm chí có anh còn coi tôi là đồ phản bội.. Mà bản thân tôi cũng cảm thấy rất khó xử với những
gì vừa hiện ra dưới ngòi bút của mình. Do bị một thứ mặc cảm tội lỗi thế nào đó
ám ảnh, nên mặc dù đã rất dài lời, song tiếng nói của tôi vẫn cứ có cái vẻ ấp a
ấp úng, biểu hiện của một sự thiếu tự tin hoàn toàn.
Bài viết đã
tìm được một chỗ hợp lý là xếp xó trong tủ tài liệu của tôi từ đó đến nay.
Trong phạm vi
của một blog cá nhân của một người làm nghiên cứu vài ba năm nữa tuổi đã tám mươi , sở dĩ tôi
muốn giới thiệu lại bài viết với các bạn hôm nay, chỉ vì muốn cùng hiểu rằng:
-- văn học từ sau 1945 ở Hà Nội đang thiệt thòi quá, nó không
được xem xét lại bằng cách đặt vào cả thời đại lớn có tính đến những vận động của
lịch sử; có biết bao nhiêu lầm lỡ và thách thức;
--cách tốt nhất để giải thích sự suy đồi hôm nay là trở lại với những bước đi cực đoan trong quá khứ;
-- và trong việc khai phá lại quá khứ để định hướng tương lai, nếu chúng ta
cứ bước theo những lối mòn tự ca ngợi mà không dám nghĩ khác đi dám công nhận là đã suy đồi hư hỏng thì sẽ chẳng bao giờ có được những thay đổi cần thiết
Một
thế hệ nhà văn trưởng thành
từ Cách mạng và kháng chiến
từ Cách mạng và kháng chiến
Trong
bài Con đường dẫn tôi tới nghề văn in trong tập sách Đường vào nghệ
thuật (1963), nhà văn Nguyễn Khải có kể lại những bước đi chập chững của
mình khi mới bước vào nghề.
Theo
anh cho biết, những bài văn đầu tiên của anh là những bài đăng trên một tờ báo
tường, và những người bảo ban anh về
cách viết lại cũng chính là những người dạy dỗ anh về cách sống, đó là các đồng
chí chính trị viên.
Anh
không nói thật rõ, nhưng qua bài viết, cứ thấy toát ra cái ý: chừng như anh đã
đến với nghề này tự nhiên, dễ dàng, thuận lợi.
Qua
cách kể ít nhiều có phần cường điệu của tác giả, thì thuở nhỏ, anh là một người
“ăn không nên đọi, nói không nên lời” và cho đến nay, những người vốn quen biết
anh từ trước, vẫn không hiểu vì lẽ gì anh lại trở thành một người viết văn.
Có thật
tuổi trẻ Nguyễn Khải là như vậy không, điều đó không quan trọng lắm. Cái chính
là điều tác giả nhấn mạnh. Anh đã trưởng thành cùng với sự trưởng thành của đời
sống Cách mạng; trước sau, bao giờ anh cũng chăm lo một cách nghĩ mà anh cho là
đúng với những người như anh, nghĩ rằng mình đã viết văn như thể làm công tác
chính trị, một công tác được giao phó, suốt thời gian kháng chiến, và những
ngày tiếp.
Bên
cạnh Nguyễn Khải, tôi nhớ tới nhiều nhà văn khác, cùng lứa tuổi với tác giả Xung
đột, và nhất là cùng sự đào tạo giống như anh, hiện cùng đang tại ngũ như
anh.
Hoặc là
Hồ Phương, trong số các nhà văn trưởng thành trong kháng chiến, có thể nói anh
là người nổi tiếng sớm nhất; năm 18 tuổi, Hồ Phương đã viết được một truyện
ngắn chững chạc, từ đó đến nay, mọi người vẫn nhắc tới. Nhưng chính truyện ngắn
đó thì lại ra đời rất giản dị.
Theo lời một người bạn kể lại, trong một lần
đi công tác, Hồ Phương ghé lại một bản vắng, xin một ống dầu dọc ngồi viết. Sau
khi có được Thư nhà và một vài bài ký, truyện ngắn đăng ở Văn nghệ trung
ương, anh còn tiếp tục làm công tác ở cơ sở, đến Điện Biên Phủ, làm chính trị
viên một đại đội cao xạ, và sau hoà bình, mới chính thức trở thành một nhà văn
chuyên nghiệp.
Hoặc
như Nguyễn Minh Châu, tuy cũng đã chuẩn bị từ kháng chiến chống Pháp, nhưng mãi
sau 1953 khá lâu, tức tới đầu những năm 60, mới thực sự cầm bút. Về cái khâu
gọi là chuẩn bị này, trong lúc vui chuyện Nguyễn Minh Châu có kể lại một kỷ
niệm. Một lần, mấy anh em cùng đơn vị chạy càn, đói, rét, mới ngồi tính sau hoà
bình lập lại sẽ làm gì. Có người nói về dạy học. Có người nói về ba-ninh-thôn,
đi cày.
Riêng
Nguyễn Minh Châu trong một phút cao hứng buột miệng bảo: “Tôi sẽ viết văn”.
Mọi người cùng cười ồ lên, không ai tin.
Không
hiểu trong số những người bạn cũ, có ai trở về với nghề nghiệp của mình không,
nhưng cái người mà chung quanh cùng cười ồ lên đó, thì lại đang làm đúng cái
nghề mà mình ước ao, và làm tốt, có được
địa vị nghề nghiệp vững chắc.
Nguyên
Ngọc làm y tá và Hữu Mai làm phái viên mặt trận. Phạm Ngọc Cảnh diễn kịch, Hải
Hồ và Nguyễn Ngọc Tấn đều phụ trách văn công, còn như Đào Hồng Cẩm thì chính
thức làm công tác chính trị, chứ không phải phụ trách chuyên môn ở một đội văn
công…
Tôi có
thể kể thêm nhiều ví dụ khác, những ví dụ nhất trí với nhau ở chỗ này. Là các
nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch nói trên đều đã trưởng thành từ những công việc
rất cụ thể trong cuộc chiến đấu chung của dân tộc.
Ban
đầu, phần lớn không nghĩ rằng sau này mình sẽ sống chết với văn nghệ.
Cái
phần mà những người viết văn xưa nay ai cũng thường có một thời gian luấn quấn
và phải nhiều năm tháng sau mới gột rửa hết được, là bệnh ảo tưởng, quá cuồng
si với nghệ thuật, ở đây không thấy ai bị vướng mắc.
Ngược
lại, phần lớn theo sự sắp xếp của tổ chức mà làm, do yêu cầu mà làm, xoay xoả,
mầy mò, rồi thì cũng làm được cả, và bước bước nào chắc bước ấy.
So với
những người viết văn ở thế hệ trước (lớp các nhà văn đã đứng tên từ trước Cách
mạng), lẫn thế hệ những người mới về sau, thì bước đi ban đầu của lớp người
viết trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp quả thật có nhiều chỗ khác.
Trong lịch sử văn học, ít có thế hệ người viết nào lại phát triển kỳ lạ vậy.
Nhưng
với chính họ, một giai đoạn mới trong lịch sử văn học lại bắt đầu. Và nguyên
nhân sâu xa thì không thể tìm ở đâu khác, ngoài hoàn cảnh xã hội mà thế hệ đó
sống, là Cách mạng và Kháng chiến.
Sự
định huớng của thời đại
Nếu cần
tóm gọn những đặc điểm của xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, có
thể nói một cách đơn giản là nó hết sức trì trệ.
Một cái
khung chủ nghĩa thực dân áp đặt lên một xã hội phong kiến bề ngoài trở thành
tập quyền từ lâu, nhưng thực chất về mặt kinh tế vẫn nặng về tự cấp tự túc, tức
phân tán, rời rẽ. Đói nghèo và lạc hậu, tất cả bắt nguồn từ nền sản xuất thấp
kém và cũng do đói nghèo và lạc hậu, nền sản xuất đó lại cứ luẩn quẩn trong cái
vòng thấp kém mãi, không sao ngẩng mặt lên được. Một tí thành thị đã rất quê
mùa, đại bộ phận nông thôn càng tăm tối không thể tưởng tượng nổi.
Trên
dải châu thổ sông Hồng chẳng hạn, đồng đất còm cõi, bị bòn rút bao đời mà không
bao giờ được bồi đắp, càng còi cọc đi mãi, và những người nông dân tù túng cũng
chỉ còn có cách giam mình trong một khung cảnh khép kín về mọi mặt, cuộc sống
lê lết như những vệt mòn trên đê, vô cùng tẻ nhạt, đơn điệu.
Có thể
nói rằng tất cả những gì mà nền văn học hiện thực với những Ngô Tất Tố, Nguyễn
Công Hoan… đã viết về nông thôn trước Cách mạng đều đã rất đúng với thực trạng
xã hội lúc bấy giờ, chỉ trừ có một điều - các nhà văn hiện thực đó không hề
thấy được bước phát triển tất yếu phải tới là Cách mạng tháng Tám, và tiếp đó
là cuộc kháng chiến thần thánh.
Nhưng
thực tế lại là như vậy -- cái xã hội trì trệ hôm qua lại kết thúc bằng cuộc
Cách mạng xới lật lại tất cả mọi nền nếp của xã hội cũ, và cuộc kháng chiến
trong đó cả dân tộc trở thành một đạo quân hùng hậu tiến hành đến cùng một cuộc
chiến đấu để bảo vệ tự do và độc lập.
Phải
nhắc lại tất cả những trì trệ kiềm toả nói trên để thấy tiếng gọi giải phóng là
cái tinh thần chủ yếu làm nên sức mạnh của Cách mạng tháng Tám.
Đời sống ngột ngạt quá rồi, chưa hiểu vui buồn
thế nào, hãy cứ đổi thay cái đã!
Cuối
cùng thì cách mạng phải là việc tổ chức, xây dựng lại xã hội mới, nhưng trước
hết, nó là chuyện phá bỏ một cái gì hôm qua hết sức ngưng đọng. Là sự thức tỉnh
của những người hôm qua hoàn toàn mê muội. Là bước khởi động rầm rập của một
đoàn người khổng lồ trên đường đi tới một chân trời mà ai cũng tin là mới mẻ.
Dường
như để chứng minh rõ thêm sức mạnh chính nghĩa của Cách mạng, nên tiếp ngay sau
cuộc khởi nghĩa, lịch sử lại thử thách dân tộc trong một chặng đường gay go ác
liệt tiếp theo là cuộc kháng chiến.
Từ thời
nhà Trần, nhà Lê, dân tộc này đã biết đến nhiều cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện, tuy nhiên, chưa bao giờ xã hội lại được tổ chức chặt chẽ để tập trung phấn
đấu cho một mục đích chung sáng rõ như lúc này.
Xã hội cũ bị đập vỡ ra, mọi nền nếp mới chưa
được xây dựng, thì đất nước đã bước vào một cuộc chiến đấu, và từ đó, có xây
dựng cụ thể những gì, thì cũng là trên phương hướng phục vụ cuộc chiến đấu mà
phát triển.
Điều
quan trọng nhất là-- cũng như Cách mạng-- kháng chiến là một cuộc vận động lịch
sử lay chuyển đến tận gốc rẽ toàn bộ đời sống dân tộc, chiếu rọi đến mọi hang
cùng ngõ hẻm, lôi cuốn mọi tầng lớp, mọi thành phần xã hội cùng tham dự, phấn
đấu. Với kháng chiến và từ kháng chiến, đông đảo quần chúng được thức tỉnh để
đảm đương nhiệm vụ lịch sử trước nay đã từng đảm đương, nhưng lại chưa có ý
thức đầy đủ.
Về mặt
tổ chức, từ đây xã hội được nhất thể hoá từ trên xuống dưới để siết chặt hàng
ngũ như một đạo quân, quyết lòng đánh bại kẻ địch mạnh hơn gấp bội.
Phát
huy hết những đặc điểm trong tâm lý quần chúng những năm sau Cách mạng, nghệ
thuật lãnh đạo và tổ chức của Đảng đã lên tới mức hoàn chỉnh.
Bắt
đầu, hãy nhớ lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch,
trong đó những chữ như “tất cả”, “bất kỳ”, “không phân biệt” đều là chỉ cái ý
sự nhất trí đến cao độ của cả dân tộc, cũng là sự định hướng đến cao độ của một
hành động lịch sử. Và thực tiễn đã diễn ra, đúng như Lời kêu gọi mong
muốn.
Sở dĩ
phải nhắc lại vài nét về hoàn cảnh lịch sử như trên, vì theo tôi hiểu, đó là
một điểm đầu tiên phải nhớ tới, khi muốn tìm hiểu sinh hoạt tinh thần của xã
hội ta sau Cách mạng tháng Tám nói chung, bộ mặt văn học nói riêng, và liên
quan đến điều chúng ta đang nói ở đây, là lớp nhà văn trưởng thành trong kháng
chiến.
Bởi
Cách mạng như một lưỡi cày khổng lồ, đào xới toàn bộ xã hội (hình ảnh mượn của
nhà văn Nguyễn Đình Thi), nên mới có hiện tượng phổ biến là các anh xuất thân
từ rất nhiều tầng lớp khác nhau, đã trải qua rất nhiều công việc khác nhau,
trong đó có những người vốn trước Cách mạng sống cuộc sống hết sức lầm than,
không hề biết đến quyển sách, nay làm chủ cuộc đời mình, làm chủ văn học.
Và cũng bởi kháng chiến yêu cầu mỗi người tập
trung tất cả vào cuộc chiến đấu, nên lúc đầu các anh đã làm bất cứ việc gì mà
hoàn cảnh yêu cầu, để sau đó, lại sẵn sàng cầm bút, do năng khiếu cá nhân một
phần, một phần khá quan trọng khác là do yêu cầu tuyên truyền trong kháng chiến
đòi hỏi - kháng chiến yêu cầu văn hoá, như đã yêu cầu kinh tế, tài chính phải
phục vụ kháng chiến.
Bề ngoài, hình như mỗi người đến với văn học
một cách hồn nhiên.
Song
xét đến cùng, việc hình thành một đội ngũ những người viết văn như thế lại là
một điều hoàn toàn hợp quy luật.
Cuối
cùng, cũng bởi lẽ có những người viết cụ thể như thế đóng vai trò chủ công, để
phục vụ một số yêu cầu cấp thiết như thế, cho nên nền văn học của chúng ta mới
có khuôn mặt như hiện nay chúng ta thấy.
Bên cạnh thế hệ các nhà văn lớp trước dần dần
tự cải tạo trong Cách mạng và kháng chiến, thế hệ những người làm văn nghệ mới
đã mang vào văn học những đặc điểm của hoàn cảnh mới, sự từng trải mới, và nhất
là quan niệm về đời sống và quan niệm về văn hoá trong điều kiện lịch sử cụ thể
lúc này.
Và gần ba chục năm nay, văn nghệ đã cứ theo
phương hướng đó mà đi, những đặc điểm hoạt đọng văn nghệ từ hồi còn ở Việt Bắc
được tiếp tục giữ gìn và trở thành khuôn vàng thước ngọc cho mọi sinh hoạt văn
nghệ nói chung, khi về Hà Nội, cũng như nay, tiếp quản Sài Gòn. Như tất cả
những nền nếp trong kinh tế, trong sinh hoạt chính trị vẫn đã được hình thành
và gìn giữ như vậy, thực chặt chẽ, xít xao.
Niềm tin
Con đường đi của chúng
tôi tới cách mảng rất đơn giản. Cuộc đời chúng tôi xét về một mặt nào đó, cũng đơn giản… Cách mạng đến
đúng lúc với dân tộc, với xã hội, với mọi lứa tuổi, nhưng đặc biệt rất đúng lúc
với lứa tuổi chúng tôi.
… Tuổi 15 là tuổi
lý tưởng nhất để đón chào Cách mạng, vì những thói quen của xã hội cũ chưa đủ
thời gian để giằng trói nó, còn những quan niệm mới mẻ của một thời đại mới mẻ
lại được tiếp thu hết sức dễ dàng. Cách mạng [ …] là ngày hội tưng bừng nhất của lớp người sắp tới tuổi
trưởng thành… Chúng ta mới có 15 tuổi, nhưng chỉ cần vài tháng được sống
trong một biến cố lịch sử to lớn, chúng ta đã trở thành những thanh niên anh
tuấn.
Những
đoạn trên đây, trích lẫn lộn từ trong Một thế hệ có mặt trong ba cuộc tấn
công lẫn Người 40 tuổi là
những bài tự sự Nguyễn Khải viết trong những năm phấn khởi nhất của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, từ 1968 lại đây. Như thể “những lời tự thú của một đứa con thời
đại”, các đoạn văn đó thống nhất lại ở một điều là muốn khái quát bộ mặt tinh
thần của chính tác giả và những người cùng lứa với mình khi ắt đầu tiếp xúc với
Cách mạng và đi theo kháng chiến, tức một điều rất quan trọng, nó là cái lúc
đến (chữ của Nguyễn Khải ) cần phải hiểu, nếu như muốn hiểu sinh hoạt văn
học từ bấy đến nay.
Đúng
như tác giả Xung đột đã nói, khi Cách mạng tới, lớp người như các anh,
tức lớp người làm chủ xã hội hiện nay, mới khoảng 15-16 tuổi, nói chung là lớp
người mới bước vào tuổi trưởng thành, thường khi tin tưởng rất cuồng nhiệt, và
thích hành động hơn suy nghĩ.
Tuy việc
sử dụng một lớp người ở lứa tuổi như thế này không phải là đặc điểm riêng của
Cách mạng Việt Nam, song cũng phải nhận là ở đây, sự kết hợp giữa xu hướng thời đại và sức mạnh bản năng của cả một thế
hệ cũng đã đạt đến một trình độ rực rỡ, ít nhất là lịch sử dân tộc chưa bao giờ
biết tới.
Một guồng máy xã hội bắt đầu khởi động, theo
những nguyên tắc tự nó đặt ra, miễn sao không giống với những nguyên tắc đã chỉ
đoạ sự vận động của xã hội cũ là được.
Tất cả
các ngành, không loại trừ ngành nào, đều được tổ chức lại, trong đó những người
trẻ tuổi nắm vị trí then chốt. Nên chi toàn toàn có đủ lý do để căn cứ vào các
anh, những người trẻ tuổi đó, mà tìm hiểu sinh hoạt tinh thần sau Cách mạng.
Từ sự
định hướng của thời đại, tức tính chất tất yếu của Cách mạng và yêu cầu tất cả
phục vụ kháng chiến, trước tiên chúng ta bắt gặp ở tâm lý những người đi kháng
chiến và nhất là ở lớp người trẻ một sự thanh thản đến kỳ lạ. Lý tưởng lúc ấy
sao mà trong sáng!
“Con người bỗng chốc như đẹp ra, như trong
hơn” “mọi mối quan hệ bỗng chốc trở nên giản dị” (Người 40 tuổi).
“Những
cái mà ta nghĩ, ta nói, ta yêu thường phẫn nộ, cũng là những cái mà cả xã hội
cùng nghĩ, cùng yêu thương, cùng phẫn nộ.” (Con đường dẫn tôi tới nghề văn).
Nói tóm
lại, tức là có sự nhất trí hoàn toàn giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân
và xã hội (một mối quan hệ có ý nghĩa làm nên cho mọi sự phát triển của các
hình thái ý thức).
Rõ ràng
đây là một đặc điểm mới, một sự thay đổi 180 độ, nếu so với đời sống tinh thần
trước Cách mạng, cũng như so với tình hình các nước khác nhất là từ sau đại
chiến thứ hai tới nay.
Trong
khi người ta gọi đây là thế kỷ của nghi ngờ, thì với chúng ta, đây là thời đại
của niềm tin.
Trong
khi mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ở họ tha hoá, biến chuyển, giữa hai bên
có một cái gì đó hoàn toàn không tương ứng với nhau, không hiểu nổi nhau (từ đó
mà tiểu thuyết hình thành và tiểu thuyết hiện đại là tiểu thuyết đa âm, tiểu
thuyết của những quan điểm tư tưởng đối thoại), thì ở ta, mối quan hệ đó, trong
cách hiểu của mọi người, từ những người viết văn đến bất cứ người bình thường
nào là hết sức hoà hợp tốt đẹp.
Ví như
tác phẩm Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc chẳng hạn. Nhà nghiên cứu Hoàng Như Mai trong cuốn Văn
học Việt Nam hiện đại
(1945-60) in ra từ 1961, đã rất có lý khi gọi đó là
một anh hùng ca. Thật ra, ba chục năm nay, cả nền văn học chúng ta là mang tính
chất anh hùng ca, cũng như do mối quan hệ giữa người và người nhất trí hoà hợp,
các tác phẩm anh hùng ca đã làm nền âm hưởng chủ yếu của nền văn học tất cả các
nước, ở giai đoạn khởi thuỷ.
Trở lại
với cái mạch chủ yếu trong đời sống tinh thần những năm kháng chiến chống Pháp,
và có thể nói là cả những năm sau hoà bình lập lại, vắt sang những năm đầu của
cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Trên cơ
sở sự nhất trí cao độ giữa cá nhân và hoàn cảnh, hàng loạt đặc điểm khác trong
quan hệ xã hội được hình thành, và nhất là được thế hệ thanh niên lúc đó tiếp
nhận, hoàn thiện.
Về đại thể, có thể nói như tác giả bài Người
40 tuổi đã tự nhận: đó là những năm tháng các anh sống rất hồn nhiên, hồn
nhiên tới mức nông nổi, tuỳ tiện (chữ của Nguyễn Khải) mà cũng chưa gây ra xáo
trộn gì đáng kể. Phong cách quan hệ chung giữa người với người lúc này là giản
dị, dễ dàng. Tất cả như thẳng băng một chiều.
Không
có đất sống cho những hoài nghi, tiêu cực đã đành, ngay cả những biến thái tạm
gọi là phức tạp trong sinh hoạt tinh thần, một chút băn khoăn, một thoáng tìm
tòi đổi khác, cũng đều trở thành vô lý, lạc lõng, và cần phê phán triệt để.
Mặt
khác, lúc này con người trở nên kiêu hãnh hơn bao giờ hết, kiêu hãnh ngẩng cao
đầu như chúng ta thường nói, tự hào ngay từ những vất vả mà mình phải chịu.
Chín năm kháng chiến,
chúng ta đi khắp mọi nơi, biết đủ mọi việc, tiếp xúc đủ mọi người, nếm trải đủ
gian nan, đương đầu với mọi sự hiểm nghèo. Cái lo nhất từng biết, cái buồn nhất
cũng từng biết, cái vui nhất cũng từng biết
(Nguyễn Khải: Một thế hệ…)
Với ý
chí sắt đá, mỗi người tin rằng mình có thể làm được bất cứ việc gì, vì mình là
những người tốt nhất, đẹp nhất trong cuộc đời này, mình đã hiểu biết tất cả.
Kẻ yếu bóng vía thường
hò hét ầm ừ, mà trong lòng lạnh ngắt, kẻ cuồng tín mê muội ưa lời phỉnh nịnh
tâng bốc mà ngọn lửa điên đại chỉ hồng ngoài mặt chứ không nhen nhóm trong tim.
Còn ta…
ta hiểu rõ vị trí của mình, hiểu rõ quá khứ và hiểu tận tương lai công
việc ta làm hôm nay. Khát vọng và lý
tưởng, nỗi niềm và tâm tư đã nhuần nhuyễn trong ta, đã trở thành bản lĩnh.
(Xuân Thiều: Màu sắc ngoài mặt trận)
Có thể
chọn ra nhiều đoạn văn tương tự như trên trong các phát biểu chính thức của các
nhà văn, các bài tuỳ bút, lý luận, cũng như những đoạn gọi là phát biểu chính
luận của các nhân vật trong các tập
truyện.
Chính
nó là cái tinh thần quán triệt trong tất cả các tác phẩm từ sau Cách mạng tới
nay, và càng qua chất dọng của các anh kiện tướng của nền văn học mới như Hồ
Phương, Hữu Mai, Nguyên Ngọc, Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyễn Khải… thì nó lại càng
vang lên mạnh mẽ.
Không
một thoáng run rẩy một phút chần chừ, niềm kiêu hãnh về sau còn được đẩy tới
mức những kết luận khái quát có tính chất bao trùm rộng rãi có tính cách lịch
sử. Ví như, đây là dạng thức mới nhất của nó: một đoạn trích trong phát biểu
của Nguyễn Trung Thành tức Nguyên Ngọc tháng 6.1975
Đẹp thay là lịch sử.
Và trước hết đẹp thay là dân tộc kỳ diệu chúng ta. Bởi vì chính dân tộc này,
dưới sự lãnh đạo của Đảng tuyệt vời này, đã làm nên lịch sử đó.
(Báo Văn nghệ Giải
phóng số 52)
Những
chữ nghĩa tốt đẹp nhất thần thánh, tuyệt vời được huy động. Và người nói
dứt khoát, thành tâm làm sao! Những cách nói mới, những kiến thức mới được bổ
sung kịp thời, để những điều nói ra tự mấy chực năm nay ngày càng trở nên sắc
bén, hoàn hoả.
Có lẽ
rất lâu về sau, các thế hệ tiếp nối còn ghen tị với một niềm tự tin lên đến mức
tuyệt đỉnh như vậy. Nếu làm tuyển tập những lời phát biểu tương tự, chúng ta sẽ
có một tập sách rất dày, tất cả châu tuần quanh một ý thơ của nhà thơ Tố Hữu:
Vươn
lên cao và tự biết : vô cùng
Đây có
lẽ là câu đề từ xứng đáng với toàn bộ tuyển tập mà chúng ta giả định.
Dĩ
nhiên, nhờ tiếp được cái tự hào tự tin nói trên, nên cái phần niềm tin, tức là
yếu tố thiết cốt trong việc sáng tác, đối với thế hệ những người cầm bút hình
thành trong kháng chiến, cũng được giải quyết hết sức giản dị.
Hạnh
phúc thay cho các nhà văn của chế độ mới, cái phần khó khăn nhất của sáng tác,
tức cái phần chủ đề tư tưởng không phải tìm đâu xa: đã có chủ trương chính cách
của Đảng.
Rất phổ biến là cách nói sau đây của Hữu Mai,
tưởng như thoáng qua một chút mặc cảm tự ti, mà thực ra hết sức sung sướng tự
hào về nghề nghiệp viết văn của mình. Theo cách ví von của anh, người viết hiện
nay chỉ còn có một khó khăn duy nhất và có thể gọi là đáng kể: đó là choáng
ngợp trước thực tế quá vĩ đại. “Chúng ta
là những người tìm hoa bị lạc giữa rừng hoa”
Riêng ở chỗ này cũng đáng để cho chúng ta dừng
lại lâu la một chút, thông cảm thêm với vai trò chiến sĩ của những người cầm
bút. Thì ra, những khó khăn ở đây thật khác xa với những khó khăn mà mỗi người
bình thường gặp phải trong cuộc sống. Hãy nghe tác giả Vùng trời nói rõ
thêm:
Sự nghiệp Cách mạng vĩ
đại đã đem đến cho những nhà văn, nhà nghệ sĩ những chất liệu mới vô cùng quý
giá. Chúng ta bắt gặp nó trong từng bước đi trên những chặng đường của đất nước
hôm nay. Nhưng trên mảnh đất vô cùng giàu có của sự sáng tạo, chưa bao giờ
chúng ta thấy khả năng nhỏ bé, sức tưởng tượng của mình trở nên nghèo nàn…
(Trích Văn nghệ
số 1/3/75)
Tóm
lại, vấn đề chỉ còn là làm sao tinh chế chất liệu, bồi bổ thêm sức tưởng tượng
tức là sức bay bổng của ngòi bút, thế thôi.
Ngoài
ra thì không có việc gì phải lo tính hết.
Mỗi khi
bàn về nghề nghiệp, đó là cái ngụ ý chủ đạo toát ra qua bài viết của Hữu Mai,
cũng như của nhiều tác giả khác.
Đại để
là các nhà văn thường muốn nói một cách kín đáo! Chỉ có một người thích nói ra
một cách rõ ràng mạch lạc: không ai khác, đó chính là tác giả Xung đột.
Không phải một lần, mà trong nhiều lần khác nhau, mõi khi có cơ hội, không bao
giờ Nguyễn Khải bỏ qua mà không phát biểu trực tiếp cái ý đó cho thực thấu đáo.
Năm 1963,
anh viết:
Với những người viết
hiện nay, thì người đỡ đầu quan trọng nhất, có tác dụng quyết định nhất lại là
cuộc sống, và Đảng Cộng sản thân yêu, nơi nương tựa vững chắc, tin cậy về đời
sống tinh thần, phương hướng của mọi suy nghĩ và hành động, là lẽ sống, là cội
nguồn của những đức tính đẹp đẽ nhất của mỗi chúng ta.
Bảy năm
sau, tức năm 1970, qua bao nhiêu suy nghĩ, nghiền ngẫm, và từng trải hẳn lên
trong chiến tranh (Nguyễn Khải là người rất hay nói đến từng trải), trong “một
bản thu hoạch” được gọi là “riêng tư”, tức là chứa chất nhiều điều tâm sự sâu
xa, anh lại đi tới một khẳng định dứt khoát hơn. Theo anh, cái mức phấn đấu của
mỗi nhà văn phải là làm sao để.
... tư tưởng lớn của
Đảng đồng thời cũng là mục tiêu riêng của sự sáng tạo. Đường lối lớn của Đảng
đồng thời cũng là những kết luận đã được hoàn toàn khẳng định của chính mình.
Cũng
một niềm tin ấy, chúng ta thấy biểu hiện ra bao nhiêu vẻ khác nhau.
Ở Nguyễn Khải, nó là niềm tự hào, ý thức kiêu
hãnh, và một lối nói cả quyết đến tuyệt đối; sang Hồ Phương, nó hiện ra ở vẻ vô
tư, nhẹ nhõm: thì tất nhiên mọi chuyện là như thế, làm sao quan niệm khác được,
đời sống tốt đẹp lắm, cứ làm thôi, có việc gì phải nói thêm nữa?
Trong
khi Nguyên Ngọc bay bổng, trữ tình, thì Hữu Mai cố gắng phanh phui một vài khái
cạnh phức tạp, nhưng ai cũng biết, đó là cách để củng cố cho kết luận sẵn có
được thêm hoàn thiện và thêm sức thuyết phục.
Hải Hồ
và Mai Ngữ, Xuân Thiều và Nguyễn Trọng Oánh, mỗi người một vẻ riêng, nhưng đều
theo một phương hướng chung, trăm sông đều đổ ra biển. Và đây, Nguyễn Minh
Châu, người xuất hiện hơi muộn, trong bộ y phục ít nhiều có vẻ mới mẻ, do nơi
bản năng nghệ sĩ tài hoa khá thấm đượm của mình, nhưng tận trong tiềm thức sâu
xa, vẫn chia sẻ với đồng chí đồng đội của mình không thiếu một thứ gì.
Hoặc là
niềm tự hào của một người viết khi có được một chỗ dựa về tinh thần tuyệt đối
vững chắc.
Những người cầm bút
chúng ta hiện nay đang có một thuận lợi to lớn là có Đảng lãnh đạo. Nhờ có
Đảng, chúng ta đã có đôi mắt nhìn hiện thực Cách mạng và kháng chiến một cách
sáng tỏ. Chúng ta lại được học tập đường lối cách mạng của Đảng trong từng giai
đoạn để nhìn thấy trước từng chặng đường xã hội trong đang đi tới.
Hoặc là
cái cảm hứng chung về đời sống hiện nay, một đời sống đã trưởng thành, theo như
chữ dùng của tác giả.
Ngày nay, chúng ta đã
có hàng chục năm Cách mạng thắng lợi. Những lý tưởng ngày xưa đã trở thành hiện
thực và tồn tại xã hội, cái xã hội ấy đang được đem ra thử thách trong máu lửa
và càng tỏ rõ sức bền vững. Lớp người trẻ tuổi vác dao kiếm đi cướp chính quyền
hồi Cách mạng tháng Tám, ngày nay đã có con cái và con cái cũng đã trưởng
thành.
(Trang
sổ tay viết văn)
Từ một
tác gia sắc sảo đến những ngòi bút được xem là đôn hậu; từ người trưởng thành
trong kháng chiến đến người mới có tác phẩm in
những năm 60 trở lại đây, -- tất cả, không phân biệt ai, hễ cùng thế hệ
đó, là cùng một giọng điệu, cùng một ý nghĩ, tất cả y như những diễn viên đồng
ca, màu sắc trong tiếng hát có thể hơi khác có chút, nhưng đều là hát lên bài
hát đã được quyết định chung, và mỗi người đều tôn trọng giai điệu đó một cách
hết sức tự giác.
Khi tìm
hiểu quan niệm của những người viết, đáng lẽ chúng ta phải căn cứ vào nội dung
hình tượng của các tác phẩm hơn là những phát biểu trực tiếp. Tuy nhiên, nếu
xét riêng về mặt niềm tin, cái phần thẳng băng trong ý nghĩ, tư tưởng, thì rất
dễ cảm thấy là qua tác phẩm của các nhà văn nói trên, giữa tác giả và các nhân
vật có sự trùng hợp hoàn toàn, hơn nữa nhìn rộng ra, đó cũng là quan niệm chi
phối cả thế hệ đó trong cách làm kinh tế, khoa học và các hoạt động khác, nên ở
đây, không phải lo về bất cứ sự so le nào hết.
Nhìn chung, có thể mệnh danh thế hệ của các
anh là thế hệ của niềm tin, và toàn bộ nền văn nghệ của chúng ta từ bấy đến nay
là nền văn nghệ của niềm tin, tin tuyệt đối, tin một cách thành thật, chính
niềm tin đó là lẽ sống của mỗi người, là động cơ thúc đẩy mọi hoạt động.
Nếu như ở người nọ người kia, trong một lúc
không vững vàng nào đó, có thoáng qua một chút băn khoăn, ngần ngại, thì cũng
nhanh chóng tự gạt bỏ, và được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, được những ngòi bút
đồng chí đồng đội giúp thanh toán cho bằng hết.
Vả lại, ngồi tính toán một lúc thì thấy
cái niềm tin đó là không khí của thời đại. Cả đoàn quân đã khởi hành. Cả guồng
máy đã quay. Ít nhiều, mỗi người đều có dính cả phần máu thịt, đều gắn cả tuổi
trẻ sôi nổi và nói chung là quá khứ tốt đẹp của mình vào sự nghiệp, đều có đóng
góp vào sự chuyển vận của bộ máy xã hội. Vậy thì còn có cách nào khác ngoài con
đường hăng hái tiến lên dưới ngọn cờ Cách mạng ba mươi năm trước?
Vinh dự và trách nhiệm, hai ý niệm không tách
rời nhau như chúng ta đều biết, mà làm
thành một mối dây ràng buộc; cả hai không phải là chia đều cho tất cả mọi
người, ít nhiều vẫn có người kém người hơn, tuy nhiên, chắc chắn là ai cũng có
phần xứng đáng của mình trong đó.
Truyền thống cũ, bộ mặt mới
Điểm
lại thơ ca hồi Cách mạng tháng Tám và những năm đầu kháng chiến, nhà phê bình
văn học Lê Đình Kỵ từng có một nhận xét: Lúc này, thơ văn thường nói đến chúng tôi,
cái ta
- Chúng ta đoàn áo vải
Sống cuộc đời rừng núi
bấy nay
(Hoàng Trung Thông Bài ca vỡ đất)
- Lũ chúng tôi, lớp
người tứ xứ...
(Hồng Nguyên Nhớ )
Đó là
giai đoạn tự nhận thức của một thế hệ. Đó cũng là cái thuở ban đầu của thơ ca
của sáng tác văn học.
Có phải
đến nay, chúng ta vẫn đang nằm trọn trong cái thuở ban đầu đó? Và một điều có
thể chắc chắn hơn: Ba mươi năm qua, chính sự tự nhận thức kia đã là một khía
cạnh làm nên tinh thần chủ yếu của nền văn học mới.
Bây giờ
mà nhắc lại chuyện kháng chiến chống Pháp, không biết chừng sẽ có người e ngại:
Sau hơn một phần tư thế kỷ, đời sống đã bao nhiêu biến chuyển. Từ những chiếc
xe đạp thồ, hoặc những đòn gánh tre kẽo kẹt chuyển gạo lên Điện Biên, đến chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã có những chuyến tiếp tế bằng máy bay, một
vài giờ chở hàng chục tấn đạn từ Gia Lâm vào Đà Nẵng. Vậy thì có nên nhắc
chuyện cũ?
Song,
nhìn kỹ thì thấy: sau những biến chuyển bên ngoài, cái lõi bên trong hình như
chẳng mấy xao động.
Tuy
những phương tiện vật chất phục vụ cho sự nghiệp sản xuất và chiến đấu ba mươi
năm qua có nhiều đổi mới - suy đến cùng, đó là một yếu tố có sức thúc đẩy lịch
sử rất mạnh từ nay về sau - nhưng trước mắt, cái mà có tác dụng thường xuyên
hơn đến đời sống xã hội nói chung, là cách quản lý sản xuất phân phối, những
nguyên tắc làm việc, nguyên tắc quan hệ giữa ngươi và người, và khái quát hơn,
cách nhìn nhận về mình, trước sau vẫn là như vậy.
Nên
chi, trải qua mấy chục năm trời, các thế
hệ kế tiếp ra đời, nhưng cái thế hệ đóng vai trò xung kích trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, lại vẫn tiếp tục đóng vai trò trụ cột trong cuộc chống Mỹ, và
thắng lợi lịch sử tháng 4/1975 chỉ củng cố thêm ở các anh ý chí cả quyết và
lòng tự tin vào con đường mà mình đã đi qua.
Đây là
một ít tâm sự vừa được bộc bạch:
... Những năm tháng
qua, cuộc sống thật vô cùng đầy đạn, vừa cô đọng, vừa bão táp. Thiếu niên biết
nói lời triết lý. Cụ già vẫn giữ mãi
tiếng cười thơ trẻ. Mỗi giây biết bao sự tích anh hùng. Một ngày biết bao giây
phút sống vĩ đại. Sử ba mươi năm phải chép dày hơn 4000 năm.
... Mỗi năm tháng đi
qua đều mang nặng nghĩa tình, đều trĩu nặng thương đau, đều nấu nung hy vọng,
đều cháy bừng tin tưởng và cũng đều chứa chất hạnh phúc, hạnh phúc của đấu
tranh, của chiến thắng.
(Toàn thắng đã về ta, xã luận báo
QĐND - 8/5/75)
Rõ
ràng, con đường đi tới nhất định sẽ được hoạch định từ đây. Muốn biết ngày mai
ra sao, cứ trông hôm nay sẽ rõ.
Riêng
về mặt văn học, như trên đã nói, cũng tính trong vòng mấy chục năm qua, mấy thế
hệ văn học kế tiếp nhau cùng tồn tại, cái phần khác đi có thuộc về quy mô, mức
độ, hoặc là những nét tài hoa, song đại thể, nền văn học của chúng ta vẫn là
bám thật chắc trên một đường ray mà các cự ly, quy cách đã được cố định từ hồi
còn kháng chiến.
Thật vậy, ví dụ ở một tác giả: từ Đất nước
đứng lên của Nguyên Ngọc đến Đường chúng ta đi, Rừng xà-nu đứng tên
Nguyễn Trung Thành, qua những bài bút ký gần đây viết trong chiến dịch Hồ Chí Minh
-- trước sau vẫn phong cách ấy, một cảm hứng ấy, một niềm tin ấy.
Mặc dù
xét trên phương diện văn học, trong kháng chiến chống Pháp nhiều cây bút mà
chúng ta đang nói mới tập sự, và chỉ thật sự trưởng thành từ những năm hoà bình
1954 trở về sau, song nhìn chung, cả giai đoạn văn học 1945-75, thì đây vẫn là
thế hệ chủ công, thế hệ có vai trò lớn lao, kiểu khai quốc công thần có vao trò Sáng nghiệp sử, trong ngành
văn chương nghệ thuật.
Những nền nếp mới được hình thành cùng với các
anh.
Những tiêu chuẩn do các anh lập nên.
Và mùa màng văn học hôm nay là gì khác, nếu
không phải do các anh gieo vãi mấy chục năm trước.
Đúng
như quy luật trong sản xuất nông nghiệp, trên mảnh đất hoang vừa mới khai phá,
mùa đầu tiên do các anh gặt hái dĩ nhiên là mùa chín đẹp nhất.
Này
đây, những lớp học văn nghệ đông đảo, những buổi tranh luận ồn ào, những đợt đi
công tác rầm rộ khác thường. Dù quy mô lớn đến đâu chăng nữa, nhưng về căn bản,
thì đấy vẫn là những nền nếp sinh hoạt văn nghệ hình thành trên chiến khu Việt
Bắc, từ một buổi tranh luận ở Phú Thọ, hoặc một lớp học văn nghệ ở Thái Nguyên.
Và kia,
những bài lý luận hùng hồn, những lý lẽ viện dẫn đanh thép, thề quyết bảo vệ
đường lối của Đảng, bảo vệ chân lý. Nếu lục lại sách báo tạp chí những năm 48-50
và mang ra so sánh, chúng ta sẽ thấy cái điều vừa nói hôm nay chẳng khác là bao
so với những ý kiến nêu ra trong một buổi họp nào đó giữa rừng; gần ba mươi năm
trước đấy mới chỉ được coi như những ý kiến trao đổi nhũn nhặn, khiêm nhường,
có chỗ nói rõ là những ý kiến góp nhặt được nhân một vài số báo hiếm hoi từ các
nước bạn gửi tới.
Sự
trưởng thành quả thật trước không ai ngờ.
Nhưng
tinh thần cơ bản thì vẫn không chệch một li so với truyền thống hồi kháng
chiến.
Như thế
đấy, thật vinh dự cho thế hệ những người đi đầu, những người đặt nền móng cho
mọi mặt hoạt động của xã hội mới nói chung và vừa đặt cơ sở cho lý luận, vừa
đưa ra những mẫu mực sáng tác cho nền văn học mới nói riêng. ở bất cứ đâu, sự
mở đầu đã là tốt đẹp, nhưng ở Việt Nam , sự mở đầu còn có ý nghĩa tất
cả. Các anh hiểu rõ điều đó lắm:
Là người viết văn,
trong những ngày lớn lao này, tôi muốn nghĩ: cuộc chiến đấu vĩ đại và thắng lợi
vĩ đại, trọn vẹn, triệt để này đã đưa dân tộc ta, con người Việt Nam ta phát
triển đến những đỉnh cao nào hôm nay? Sau thắng lợi này, những bản lĩnh mới mẻ
và sâu sắc nào đã được khẳng định thêm trong con người Việt Nam chúng ta?
Có phải chăng một
trong những phẩm chất quý giá đó, một trong những bản lĩnh được khẳng định vững
chắc thêm đó trong con người Việt Nam trải qua mấy chục năm đấu tranh, cho đến
hôm nay, là một điều này - ấy là bản lĩnh nắm vững làm chủ những quy luật cực
kỳ phức tạp của cuộc sống của xã hội.
(Nguyễn Trung Thành
báo Văn nghệ Giải phóng số 52 6/1975)
Cuộc
sống và xã hội mà Nguyễn Trung Thành nói ở đây, dĩ nhiên là bao gồm cả văn học
nghệ thuật mà các anh cũng đang "nắm vững" và "làm chủ".
Lô gích suy nghĩ của các anh có thể tóm tắt
trong một câu: cả sự nghiệp dựng nước và giữ nước còn làm được, nữa là cái phần
phản ánh của sự nghiệp đó là phạm vi của văn học nghệ thuật!
"Đã đến lúc chúng ta phải là tác giả của
những tác phẩm thật hay
rồi" (Trích bài Nguyễn Khải phát biểu của tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III-1968-
tôi nhấn mạnh hai chữ thật hay
- V.T.N) -- chả cứ Nguyễn Khải, tôi đã gặp bao nhiêu người cùng lứa với anh,
người nào cũng đau đáu trong lòng một điều tâm sự tương tự.
Ta hiểu
đó là một món nợ từng day dứt mỗi người, đòi phải thanh toán cho sòng phẳng. Và
chúng ta chạnh nhớ tới món nợ mà chính các anh hay nhắc, sau cuộc kháng chiến
chống Pháp, nhất là sau Điện Biên Phủ.
Chao
ôi, hình như các anh đã làm quá nhiều, mà lại tự nói về mình quá ít, chỉ vì bận
bịu quá! Bao nhiêu khó khăn đã vượt qua, chỉ còn mỗi trở lực về thời gian hôm
qua chưa khắc phục nổi, thì phen này đã có điều kiện để khắc phục.
Quả thật, trông thấy lứa tuổi 45, 50 trở nên
đã qua hai cuộc kháng chiến mà nay vẫn đầy hào hứng tự đảm nhiệm lấy một công
việc nặng nhọc là sáng tác văn học ghi lại thời đại vĩ đại này, mỗi người thanh
niên hôm nay có lẽ phải suy nghĩ rất nhiều.
Bài học của các anh là bài học của ý
chí, quyết tâm, hành động.
Liệu
lần này, những tác phẩm văn nghệ lớn lao đó sẽ có khuôn mặt ra sao? Câu trả lời
còn đang ở phía trước, trong tay thời gian.
Riêng
tôi chỉ nghĩ đại khái: nếu nhớ lại những mơ ước mà các anh hàng nung nấu trong
lòng ba chục năm trước, rồi đối chiếu với những Vùng trời và Chiến
sĩ, Kan Lịch và Dòng sông phía trước, Trận tuyến chiều dài và Đất
Quảng, Thôn ven đường, Dấu chân người lính, Sao Mai... cùng nhiều tác phẩm
khác, mới xuất bản hôm nay thì có thể đoán ra những cái mà các anh làm ra trong
thời gian tới sẽ như thế nào. Văn học bao giờ cũng xứng đáng với thời đại trong
đó nó sản sinh, nhất là xứng đáng với những người đã làm ra nó.
Kỷ
niệm 30 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9