Tôi thấy trên mạng một bài báo quá hay nên xin
phép đưa lạ ở đây may ra có thể cần cho một vài bạn chưa biết
Ở đây tác giả bài viết - một Nghiên cứu
sinh, Đại học Hamburg (CHLB Đức) - thực đã đạt tới trình độ tư duy sử học hiện
đại trên thế giới.
Trong văn bản dưới đây các lưu ý in nghiêng gạch dưới
...đều là của người sưu tầm VTN
Bản gốc trên BBC hiện tôi không vào được nên đành ghi
lại đây một địa chỉ khác để khi cần các bạn đối chiếu
***
"Nam tiến", quá trình các nhóm
người Việt tiến về phía nam, mở mang lãnh thổ từ Quảng Bình đến Hà Tiên giữa
các thế kỷ XIV-XIX được coi là một trang sử lớn và quan trọng trong tiến trình
phát triển của dân tộc Việt Nam. Chính quá trình xác lập nhà nước, xây dựng xóm
làng, cảng thị, dinh trấn, thúc đẩy tương tác văn hóa, pha trộn tộc người… đưa
lãnh thổ của Việt Nam năm 1840 ít nhất gấp ba lần so với năm 1400.
Bài viết này không thách thức diễn ngôn trên, mà chỉ
đưa ra một góc nhìn khác của "Nam Tiến" đối với lịch sử người Việt,
và lập luận rằng:
việc di cư về phía nam quá nhanh, trong những
khung cảnh tự nhiên biệt lập chính là một cái bẫy địa lý mà người Việt gặp phải.
Cái bẫy này là nguyên nhân giải thích cho
tình trạng hỗn loạn của lịch sử Việt Nam ở các thế kỷ XVII-XIX.
Cụ thể là lãnh thổ lan ra quá nhanh,
"nhà nước" chạy theo không kịp, vì thế gây ra tình trạng phân tán, hỗn
loạn, vô chính phủ tại các vùng biên, nơi các nhóm địa phương xây dựng lực lượng,
nổi dậy, và dùng chính sức mạnh của vùng biên để lật đổ quyền lực "già cỗi"
và suy yếu của vùng trung tâm.
Tất cả nội chiến, xung đột vùng miền, cát
cứ đều từ cái bẫy này mà ra.
Nam tiến "nhử" người Việt vào các khung cảnh xa lạ và biệt lập
Nam tiến "nhử" người Việt vào các khung cảnh xa lạ và biệt lập
Nam Tiến đã "dẫn dụ" người Việt
vào các khung cảnh tự nhiên mới, không gian văn hóa, kinh tế mới, tách họ ra khỏi
các mối quan hệ quyền lực cũ, và sau đó đẩy các các nhóm này vào cuộc xung đột
lẫn nhau.
Mỗi khi một nhóm người Việt nào đó vượt qua những chướng
ngại địa hình, và đi sâu về phía Nam, thì đồng thời họ bị "cắt rời"
ra khỏi trung tâm quyền lực cũ của nhà nước ở phía Bắc. Với các nhóm đi sau và
vào xa hơn thì hầu như nhà nước không thể làm được gì khác là "đứng nhìn một
cách bất lực" những người này tự tổ chức ra các xã hội mới, và thậm chí là
tạo dựng ra hạt nhân của nhà nước mới. Điều này thúc đẩy sức mạnh của các vùng
biên trong việc thách thức các trung tâm nhà nước "cũ" ở phía
bắc.
Khi bạn vượt qua đèo Ngang, từ Hà Tĩnh sang Quảng
Bình, ngay lập tức gặp sông Gianh (cách 25 km về phía nam), bờ nam của con sông
được "gia cố" bởi phần kéo dài ra biển của hệ thống núi Phong Nha Kẻ
Bàng. Qua khỏi các chướng ngại này là khi bạn bước vào một thế giới khác, xa khỏi
tầm tay của Thăng Long. Đó chính là ý tưởng địa chính trị mà Nguyễn Bình Khiêm
tuyên bố, "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (Một dải Hoàng Sơn
dung thân muôn đời) vào giữa thế kỷ XVI. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đúng. Từ 1627 đến
1672, sau bảy cuộc chiến tranh, nhà Lê-Trịnh với lực lượng áp đảo và súng của
người Hà Lan đã không thể gây ra một thất bại đáng kể nào cho chúa Nguyễn.
Tương tự, từ Huế đến Quy Nhơn,
từ Quy Nhơn đến Gia Định,
từ Gia Định tới Hà Tiên,
từ Châu Đốc đến Phnom Penh là cả một câu chuyện dài.
Mỗi bước đi kéo dài 50-70 năm.
Mỗi trở ngại địa lý là "điểm cuối của một thế giới"
để mở ra một thế giới khác.
Mỗi khi một nhóm Việt nào đó bước qua cánh cổng vào thế
giới mới, họ không có đường quay trở lại (và cũng không có nhu cầu quay trở lại).
Điều này ngay lập tức làm xáo trộn các trật tự
quyền lực hiện hành, và gây ra xung đột vì sau 50 năm xác lập ở một
vùng, một nhóm tiếp theo sẽ vượt qua vùng đất cũ để đến với không gian mới, và
tạo ra một cấu trúc kinh tế-chính trị mới, sau đó quay lại đe dọa trật tự của hệ
thống quyền lực cũ.
Các trở ngại địa lý làm cho việc liên hệ/ kiểm soát của
nhà nước với đường biên mới khai mở không hề dễ dàng. Nhà Tây Sơn có thể áp đảo
trong các chiến dịch quân sự vào hạ lưu Mekong, nhưng không thể kiểm soát vùng
biên này một cách hữu hiệu. Vào thế kỷ XVIII, di chuyển đường bộ từ Quy Nhơn
vào đến Gia Định là điều không tưởng, trong khi thủy quân Tây Sơn bắt đầu bị
Nguyễn Ánh áp đảo từ đầu những năm 1790s (Vũ Đức Liêm 2017). Chính điều này làm
nên thất bại của họ.
Đoòng được UNESCO công nhận là hang động lớn nhất thế
giới
Mặt tích cực của quá trình này là tạo ra các không
gian Việt khác nhau, tạo ra các cách thức khác nhau để trở thành Việt Nam. Sự
đa dạng này là một thành quả của Nam Tiến.
Tuy nhiên, trước khi hưởng thành quả này là ba thế kỷ
mà người Việt trở thành "nạn nhân" của cái bẫy địa lý và dịch chuyển
vùng miền. Nguyễn Hữu Chỉnh là một ví dụ. Ông là một người tài năng, nhưng mắc
kẹt giữa các không gian địa lý, chính trị, và quyền lực vương triều.
Ông sinh ra ở Nghệ An, "đầu quân" cho Bắc
Hà, sau đó rời bỏ để theo Tây Sơn, cuối cùng trở thành "nạn nhân" của
Bắc Hà và Tây Sơn. Sau đó, cũng chính Tây Sơn và nhà Nguyễn lúng túng trong quản
trị không gian "Việt Nam", và bị tổn thương bởi bẫy địa lý này.
Thay đổi cấu trúc địa chính trị và quyền lực
ở Việt Nam
Sự mở rộng đất đai và lãnh thổ để lộ ra những
thay đổi "chết người" của cấu trúc quyền lực theo phân vùng địa lý ở
Việt Nam. Nó làm đứt gãy trật tự truyền thống của không gian "Đại Việt"
để thai nghén không gian "Việt Nam".
Sự thai nghén này kéo dài ba thế kỷ với những cơn đau
dữ dội, mà điển hình là các cuộc chiến tranh kéo dài giữa vùng biên mới nổi,
năng động và các vùng trung tâm "già cả".
Bắc Hà, vùng đất trải qua khai thác hàng nghìn năm.
Các con đê làm đất đai nghèo dinh dưỡng, sức ép dân cư làm cho không gian cư
trú trở nên chặt chội, và nhà nước quy củ làm xã hội "ngột ngạt". Các
học giả Pháp và Nhật tính toán đã có 3,12 triệu người chạy khỏi miền bắc Việt
Nam đầu thế kỷ XV. Điều này còn tiếp diễn với nạn mất mát nông dân vào thế kỷ
XVIII và XIX (Yumio Sakurai 1997), và giải thích cho sự sụp đổ không thể phục hồi
của của nhà Lê-Trịnh.
Đối lập với nó là tính năng động của các vùng
biên mà càng vào trong thì sự đa dạng tộc người, khả năng tiếp thu kỹ thuật và
sôi động kinh tế càng lớn hơn.
Cuộc hành quân của Tây Sơn năm 1786, chỉ một tháng, với
hạm thuyền, súng đại bác mới, và thuốc súng đã hạ bệ di sản 300 năm của vua
Lê-chúa Trịnh.
Trong trận đánh ở Huế, quân Trịnh sau hai giờ giao chiến
đã hết thuốc súng, và bị đánh tan. Trong trận thủy chiến trên sông Luộc
(6/1786), pháo của của quân Trịnh khai hỏa, nhưng không thể nào đến được phía
thuyền Tây Sơn. Đổi lại, một phát đại bác của Tây Sơn có "tiếng nổ như
sét, làm nứt đôi ngọn cây" bên bờ sông, quân Trịnh bỏ lên bờ tháo chạy
(Hoàng Lê Nhất Thống Chí). Cửa ngõ Bắc Hà mở toang.
Theo những cách tương tự mà Thuận-Quảng thách thức Bắc
Hà. Quy Nhơn thách thức Thuận-Quảng, và cuối cùng hạ lưu Mekong cho thấy sức mạnh
của vùng biên giàu có và đa dạng này, vùng đất đến tận ngày nay vẫn là khu vực
trù phú nhất nước.
Chính cái bẫy địa lý đã làm trật tự không gian "Đại
Việt" đã bị thách thức. Quyền lực của châu thổ sông Hồng đã không thể kiểm
soát được các vùng đất xa cách cả nghìn km.
Các vùng này sau đó trải qua chiến tranh gần 300
năm để xác lập nên trật tự quyền lực lãnh thổ mới của "Việt
Nam". Sự xáo trộn và chuyển dịch từ "Đại Việt" thành
"Việt Nam" chính là một trong những vấn đề quan trọng nhất của lịch sử
người Việt sơ kỳ hiện đại.
áp đặt chế độ bảo hộ ở Bắc Kỳ sau khi đuổi hết quân
Thanh đi
Nam tiến thách thức quản trị nhà nước của
người Việt
Bằng cách kéo dài một thực thể chính trị 550 km (Lạng
Sơn-Hà Tĩnh) ra một không gian dài 2000 km (đến Hà Tiên), người Việt đã bị địa
lý "nhử" để tham gia vào một cuộc hành hương "hỗn loạn". Vì
đoạn đường quá dài, khi tốp dẫn đầu đến nơi, thì những nhóm sau đã bị "thất
lạc", tản mát, chia ra thành những phân vùng khác nhau. Cai trị một
đoàn người như thế là nỗi ám ảnh của nhà nước vì quyền lực trung tâm "chạy
theo" các nhóm người này không kịp, và không có khả năng kiểm soát các xã
hội vùng biên.
Hệ thống thông tin liên lạc dọc theo 2000 km này là một
thách thức. Di chuyển từ Tam Điệp (Ninh Bình) vào đến Quảng Bình là một thách
thức giữa các thế kỷ XI-XVII. Các cuộc hành quân từ Lê Hoàn đến Lê Thánh Tông
vào vùng đất của Champa là không hề dễ dàng. Bản thân cuộc hành quân vào nam của
Nguyễn Hoàng cũng phải kết hợp cả đường thủy và đường bộ, men theo các cửa sông
và đồng bằng duyên hải hẹp bị núi chia cắt.
Việc Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn loay hoay trong
nhiều thập kỷ mới tìm được đất đặt trị sở lâu dài ở Phú Xuân/ Huế chính là một
phép thử của sự phức tạp địa lý. Thực tế, càng đi sâu về phía nam, người Việt
càng gặp phải những thách thức mới. Nam tiến "dẫn dụ" người Việt vào
các khung cảnh xa lạ, nơi mà kinh nghiệm thực hành văn hóa và cai trị của người
Việt hạn chế.
Paul Mus, học giả Pháp nói rằng người Việt đi dọc theo
bán đảo Đông Dương như một cơn lũ, mang theo lúa nước và xác lập bất
cứ đâu có thể lập làng xóm (Paul Mus 1952). Tuy nhiên, thực tế trải nghiệm của
người Việt là "phũ phàng" hơn nhiều. Nam tiến biến một
"Việt Nam" làng xóm thành các "Việt Nam" khác nhau: lên
núi, vào thung lũng, buôn bán thương mại theo cửa sông, lênh đênh theo con nước
lũ… Chính điều này làm các nhà nước phải một phen "lao đao"
để tìm cách quản lí dân cư, nhân khẩu, thuế khóa, bởi đơn giản là ở vùng biên,
các nhà nước không ra đời, xác lập một cách dễ dàng. Minh Mệnh than phiền rằng
sao dân Nam Kỳ không ở một chỗ, làm nông nghiệp mà đi lại khắp nơi theo mùa? Phải
mất hơn ba thập kỷ, hai triều vua nhà Nguyễn mới tiến hành xong thống kê địa bạ.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là màn dạo đầu. Theo sau đó là
buôn lậu lúa gạo, di cư bất hợp pháp, các hội kín, xung đột sắc tộc, thổ phỉ, nổi
loạn… - những nỗi ám ảnh khác mà nhà nước phải đối mặt với các vùng biên. Nổi dậy
Đá Vách của cư dân vùng cao Quãng Ngãi là một ví dụ cho thấy nỗi ám ảnh vùng
biên đã rình rập nhà Nguyễn trong gần hai thế kỷ: từ Nguyễn Cư Trinh đến Lê Văn
Duyệt, Nguyễn Tấn với bình định, đàn áp, đến xây Trường Lũy.
Quản lí lãnh thổ và đặt kinh đô cũng là một vấn đề đau
đầu khác mà Nam Tiến thách thức nền quản trị của người Việt. Khi các vùng lãnh
thổ cách nhau quá xa mà thông tin liên lạc gặp bất lợi do địa hình khó khăn,
cai trị hành chính không hề dễ dàng. Đến tận 1748 mới có các tuyến giao thương
liên lạc đường bộ kết nối Gia Định với các khu vực xung quanh. Liên lạc giữa
Gia Định và Hà Tiên còn phải tiến hành bằng thuyền, dọc theo duyên hải, mất nhiều
ngày. Tận 1804, nhà Nguyễn mới bắt đầu kết nối các hệ thống liên lạc và giao
thông bắc nam, được biết đến là đường Thiên Lý, hay đường Cái Quan. Tuy nhiên,
đến tận những năm 1830, Đại Nam Thực lục vẫn chép về việc hổ đi lang thang hay
thổ phỉ khắp nơi, dọc theo các tuyến đường này. Phải mất nhiều thập kỷ để đường
xá, kênh đào, hệ thống liên lạc được xác lập, nhằm giải thoát các nhóm người Việt
khỏi cái bẫy địa hình.
Lớn dưới thời Pháp thuộc.
Việc Tây Sơn chia ba Việt Nam, một phần từ những xung
đột quyền lợi, nhưng một phần khác do lần đầu tiên có một chính quyền "thống
nhất" ở Việt Nam, mà họ gặp trở ngại lớn về thông tin liên lạc, và đặc biệt
là đã trở thành nạn nhân của chính dự án lãnh thổ mà họ triển khai. Khi nghe
tin Nguyễn Huệ ra bắc, Nguyễn Nhạc đã phải cưỡi ngựa chạy ra theo:
"Khi ở dọc đường, không dám ngủ ở nhà
dân, tới đâu dương màn ra giữa cánh đồng mà nằm ở đó, quân sĩ đều ngủ lộ thiên.
Bời vậy, khi tới kinh sư [Thăng Long], đám quân chỉ là đoàn người mặt mũi hốc
hác, coi không ra bộ quân của vua chúa." (Hoàng Lê Nhất
Thống chí, 1969: 113).
Sau sự kiện này, chiến tranh giữa hai anh em đã nổ ra.
Việc chia hạ lưu Mekong cho Nguyễn Lữ cũng là một dấu hiệu khác của việc bế tắc
tổ chức hệ thống cai trị. Sau 1786, cả Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ hoàn toàn
không có "phương án B" cho Gia Định trong trường hợp vùng này bị đe dọa,
và chính điều này là "tử huyệt" của Tây Sơn khi Nguyễn Ánh xác lập tại
đây. Chính Nguyễn Ánh đã dùng sự giàu có của một vùng biên mới để đánh lại sự
lúng túng về địa lý, cai trị lãnh thổ và nhà nước của Tây Sơn. Thất bại
lớn nhất của Tây Sơn không phải là chiến thuật quân sự, vũ khí, hay chia rẽ mà
là chưa có một "bản đồ tác chiến" và "bản đồ hành chính"
cho Việt Nam, vì thế hoàn toàn lúng túng trước việc triển khai quân đội,
yểm trợ, hậu cần, vận tải trên khu vực hành chính mới này.
Nguyễn Ánh cũng không thể làm hơn, dù ông là người chiến
thắng. Ông biết tình thế nan giải về địa chính trị của mình, và dung hòa bằng
cách cử hai vị tướng giỏi nhất án ngữ hai vùng châu thổ đông dân, giàu có, còn
bản thân ông cai trị một khu vực nghèo nàn ở miền Trung. Di sản này buộc con
trai ông, Minh Mệnh phải trả giá 15 năm để tìm cách thống nhất, theo sau một thập
kỷ của biến loạn và xung đột khắp cả nước, từ Nông Văn Vân ở Cao Bằng đến Lê
Văn Khôi ở Gia Định (1826-1836). Cũng chính việc Nguyễn Ánh lựa chọn Huế làm
kinh đô là một điểm yếu khác khi vùng đất nhỏ hẹp, ít dân này luôn phải tìm
cách tạo thế cận bằng và hoạch định chính sách cho hai đồng bằng lớn. Riêng việc
vận tải lúa gạo, lương thực, quân lính, tiền đúc… hàng năm giữa Gia Định, Huế,
Hà Nội đã là một công việc khổng lồ so với nhân lực thời bấy giờ.
Sẽ mất ít nhất ba thế kỷ để người Việt giải quyết xong
các vấn đề về mở rộng lãnh thổ và xung đột phe nhóm gây ra. Họ đã "dấn
thân" vào cái bẫy của địa lý và phải tìm cách hóa giải nó bằng việc tái định
hình lại cấu trúc quyền lực vùng, đặc biệt là phát triển bản sắc chung Việt
Nam, củng cố thông tin liên lạc, giao thương, và tạo ra một trung tâm quyền lực
có khả năng vừa giữ được quyền kiểm soát, nhưng cũng vừa phải tạo ra sự cân bằng
ở cả hai đầu đất nước.
Cuối cùng, những điều trên đây không phải nói rằng việc
mở rộng đất đai về phía nam là một "tai họa" đối với người Việt, hay
người Việt là nạn nhân bị động của quá trình này. Những đóng góp của diễn trình
này vào lịch sử Việt Nam, sự đa dạng văn hóa, vùng miền, tộc người, giàu có
kinh tế mà nó mang lại là không thể phủ nhận. Người Việt chắc chắn cũng không
phải là nhóm cư dân duy nhất chịu thách thức trước tự nhiên và mở rộng lãnh thổ.
Cũng không nên quên rằng có những nhóm cư dân, tộc người, nền văn minh
bản địa mà số phận của họ gắn liền với công cuộc Nam tiến của người Việt.
Bài viết chỉ đơn giản lưu ý rằng để có một hình hài Việt
Nam như ngày nay, đã có những lúc mà quá trình mở rộng lãnh thổ và thay đổi cấu
trúc địa chính trị đã làm người Việt phải trả giá với xung đột, chiến
tranh, nội chiến, và nổi loạn. Cái giá của mấy thế kỷ bạo lực đó là
không hề nhỏ.
Tham khảo
§ Ngô gia văn phái. Hoàng Lê Nhất Thống
Chí. Sài Gòn: PhongTrào Văn Hóa Tái Bản, 1969.
§ Paul Mus, Socioloie d''une Guerre (Paris:
Éditions du Seuil, 1952).
§ Sakurai. Yumio, "Peasant Drain and
Abandoned Villages in the Red River Delta between 1750 and 1850," in The
Last Stand of Asian Autonomies: Responses to Modernity in the Diverse States of
Southeast Asia and Korea, 1750-1900, ed. Anthony Reid (Basingstoke: Macmillan,
1997), 133-52.
§ Taylor, Keith Weller. "Surface
Orientations in Vietnam: Beyond Histories of Nation and Region." The
Journal of Asian Studies 57, no. 4 (1998): 949-78. doi:10.2307/2659300.
§ Vũ Đức Liêm. "Các Dự Án Nhà Nước
'Thiết Kế' Vùng Hạ Lưu Mekong." Tia Sáng, 2018.
http://tiasang.com.vn/-khoa-hoc-cong-nghe/Cac-du-an-nha-nuoc-"thiet-ke"--vung-ha-luu-Mekong-11061.
§ ———. "The Age of Sea Falcons: Naval
Warfare in Vietnam, 1771-1802." In Warring Societies of Pre-Colonial
Southeast Asia: Local Cultures of Conflict Within a Regional Context, edited by
Kathryn Wellen and Michael Charney, 103-29. Copenhagen: Nordic Institute of
Asian Studies, 2017.
§ ———. "Việt Nam: Lịch Sử Một dân Tộc
'Dễ Bị Tổn Thương.'" Tia Sáng, 2018.
http://tiasang.com.vn/-khoa-hoc-cong-nghe/Viet-Nam-Lich-su-mot-dan-toc-"de-bi-ton-thuong"-12721.
§ ----------. "Borderlands (Border
Making in Vietnamese-Cambodian Frontier, 1802-1847)." Mekong Review 2, no.
2 (2017): 13-14.
§ ----------. "Lịch Sử Khai Thác Tự
Nhiên ở Châu Thổ Sông Hồng." Tia Sáng,
Http://Tiasang.Com.vn/-Khoa-Hoc-Cong-Nghe/Lich-Su-Khai-Thac-Tu-Nhien-o-Chau-Tho-Song-Hong-11118,
2018.