Bài đã đưa trên blog này 26-2-12
Việc quan hỗn hào lẫn lộn
Các cụ ngày xưa quá tin
vào sự nhiệm màu của đạo Khổng. Họ tưởng rằng lầu thuộc Tứ thư, Ngũ kinh,
học hết mấy pho sử, làm được câu thơ bài phú là có đủ đức hạnh để dạy dỗ dân,
đủ tài kinh luân để đưa dân đến cõi hạnh phúc. Họ tưởng rằng đã là sĩ phu, thì
là một người hoàn toàn, một đấng thánh hiền, nên họ mới phó thác cho trách
nhiệm quá nặng.
Những quyền hành lớn
ấy, từ xưa đến nay, quan trường vẫn nắm trong tay, tuy rằng cuộc sinh hoạt của
dân chúng đã đổi thay nhiều lắm.
Một ông
huyện chẳng hạn, không biết rằng chức phận của mình là phải làm những việc gì
nữa.
Ông ta là
một ông quan toà lúc xử việc kiện tụng, một ông cẩm (1) lúc coi
sóc việc trị an, một viên chức sở lục lộ (2) lúc thúc dân hộ đê …Đó là không kể cai trị là công việc
chính của ông ta.
Bấy
nhiêu nhiệm vụ hỗn hào lẫn lộn là một điều khó khăn cho ông quan mà cũng là cái
mầm cho sự lạm quyền. Và đối với những ông quan không theo đuổi một lý tưởng gì
cao siêu, đó lại là một cái mầm cho sự ăn tiền.
(1) cảnh sát
(2) sở giao thông công chính
Hoàng
Đạo
B
ùn l ầy n ư ớc đ ọng, 1939
Quyền thế trong tay cường hào
Về mặt quản trị làng xưa có một tệ hại. Là bao nhiêu quyền thế đều ở trong
tay cường hào cả. Những kỳ mục có của có thế lực có danh vọng đều là
chúa ở trong làng. Vì làng tự trị một cách quá đáng, lệ làng đặt ra
đến phép vua cũng không thay đổi được. Nếu kẻ cầm đầu trong làng là người khá,
có kiến thức có công tâm thì không kể làm chi; nhưng nếu là những người
chỉ nghĩ đến lợi riêng, thì nhũng lạm xảy ra một cách dễ dàng và quá quắt. Một
lối tổ chức có thể để những sự bất công như vậy xảy ra là một lối tổ chức không
chu đáo, tự mình lại làm tội mình.
Hoàng Đạo
Làng xã, Ngày nay, 1940
Quân hồi vô phèng
Làng ở xứ ta như một hội riêng của tư nhân. Nếu cái đặc tính của một pháp nhân
cai trị(1) là quyền ban hành những nghị định có ý nghĩa cưỡng bách, buộc mọi
người thi hành, thì làng xứ ta quả không phải là một pháp nhân cai trị.
…Muốn đắp một con đường ư? Quyết định
năm nay, nhưng có nhẽ rồi một hai năm sau mới làm xong, mỗi họ mỗi thôn mỗi gia
đình ung dung tiện lúc nào thì làm lúc ấy.
Muốn đào một giếng nước ăn ư? Nếu người khởi xướng ra việc đó không can
đảm đứng ra mà đốc thúc thì dân làng cứ chịu khó ăn nước ao mãi.
Hội đồng làng xã đặt lệ cấm đổ rác ra đường cái ư? Nếu không có một mối hiềm
thù riêng từ trước, thì không một chức dịch nào thấy mình có trách nhiệm là
ngăn cản hay trừng phạt người làm trái lệ ấy.
Thường thường những cuộc bàn cãi trong
những buổi họp việc làng không dẫn đến một kết quả thiết thực gì cả.
Biết bao nhiêu luật lệ của cơ quan cai trị đã bị xếp bỏ không
thi hành được chỉ vì một vài người không muốn nghe theo.
Chỉ cần một kẻ phản đối cũng đủ làm cho điều đề nghị hay đến đâu cũng phải gác
bỏ. Mà ở làng nào cũng có vài viên kỳ mục, vài người bướng bỉnh, bao giờ cũng
giữ thái độ phản đối: Hoặc vì họ thấy công việc sẽ làm không trực tiếp lợi cho
họ, hoặc vì họ ghét người khởi xướng ra công việc ấy; hoặc vì họ nghĩ rằng
người khởi xướng định bới việc ra để ăn -- điều nghi kỵ sau này tiếc thay,
nhiều khi cũng đúng.
(1)
kẻ có tư cách pháp lý
Vũ Văn Hiền
Mấy nhận xét nhỏ về dân quê
Bắc kỳ, Thanh Nghị, 1944
Tinh thần gia tộc quá nặng
Ta có thể thấy vì một mối tư thù, một viên lý trưởng phó lý hay trương tuần bắt
trói trái phép một người họ khác đã trái lệ làng vì một việc cỏn con ; người
ta không thể thấy những viên chức dịch ấy lập biên bản để đưa ra đình hay
giải lên quan một ông chú một người anh em họ bên nội hay bên
ngoại, dẫu người đó đã phạm vào tội do hình luật trừng trị.
Cái tinh thần đại
gia tộc ở xứ này đã diệt mất hẳn tinh thần công dân. Tình họ hàng ở thôn
quê đã làm cho tê liệt hẳn bộ máy cai trị của làng vốn tự
nó đã không được khỏe gì.
… Nhờ có sức mạnh thói
quen mà làng Việt Nam còn giữ được những cổ lệ và cái đời sống thụ
động của mình. Nhưng hiện tình thì ta không thể coi nó là một công cụ
giúp vào việc tiến hóa của dân quê.
Vũ Văn Hiền
Mấy
nhận xét nhỏ về dân quê Bắc kỳ, Thanh Nghị, 1944
Đám đông dân chúng vô cảm và vô
trách nhiệm
Việc làng thường
định vào những ngày tuần tiết, là những ngày ở đình có tế lễ và ăn uống. Khi
nào có việc gì khêu gợi sự cạnh tranh và đụng chạm đến những quyền lợi có sẵn
thì số người ra họp rất đông. Còn khi nào chỉ họp để dự định công việc mới mẻ
nhưng chưa ai thấy lợi trực tiếp cho mình thì buổi họp rất vắng. Nhiều người
chỉ ra tế lễ ăn uống rồi về; mà cũng chẳng có lề luật nào định phải có bao
nhiêu người dự bàn mới là đủ.
Vũ Văn Hiền
Mấy nhận xét nhỏ về dân quê
Bắc kỳ, Thanh nghị, 1944
Bất lực
Những người cai trị chỉ có một thứ uy quyền thuộc về tinh thần; nếu mất đi cái
uy quyền tinh thần ấy, nếu họ để mất thể diện (vì thua kiện hoặc bị người dưới
phản kháng mà không làm gì nổi) thì sẽ không làm được việc gì nữa. Vì họ có đặt
luật lệ hay đến đâu cũng không ai theo.
Một phần lớn vì thiếu thứ uy quyền rất khó có và rất khó giữ đó, nên
phần đông các chức dịch làng xã mỗi khi làm một việc gì cũng không dám tự quyết
định lấy và phải do ý kiến của tất cả mọi người trong làng
Vũ Văn Hiền
Mấy
nhận xét nhỏ về dân quê Bắc kỳ, Thanh Nghị,1944
Không hình thành nổi
một dư luận sáng suốt
Ngoài tinh thần độc tôn bè đảng, còn một trở lực nữa ngăn cản mọi công việc cải
cách ở thôn quê là dư luận trong làng, một thứ dư luận mạnh mẽ, ác nghiệt và mù
quáng. Nhiều việc cải cách đã quyết định rồi đành bỏ dở chỉ vì người thừa hành
sống trong làng xóm, không thể chịu đựng được những dị nghị chế giễu mà hàng
chục hàng trăm người nhắc lại ở khắp đầu làng cuối ngõ.
Đã không có quyền bắt mọi người im, lại sống luôn với những người đó, hương
chức tránh sao nổi ảnh hưởng của dư luận; và sau vài ba tháng làm việc, người
hăng hái đến đâu cũng đành “dĩ hoà vi quý “, bỏ hẳn những ý định của mình để
sống theo nếp cũ.
Vũ
Văn Hiền
Việc cai trị
ở thôn quê, Thanh Nghị, 1945
Chưa đủ khả năng tự cai quản
Ở các làng quê đâu đâu cũng thấy một sự mê muội bướng bỉnh gian dối, đâu đâu
cũng thấy những thói rượu chè cờ bạc khao vọng ma chay kiện cáo.
Sự nghèo nàn về tinh thần và – từ khi nền học cũ đã tàn-- sự
thiếu thốn về luân lý đã thêm vào sự đói rét và ốm đau để làm cho người dân
quê Việt Nam cực kỳ khổ sở.
Sở dĩ mọi cải cách thất bại vì dựa trên nguyên tắc không hợp thời “
các làng xã cần được hoàn toàn tự trị “.
Khi giao việc cai trị trong làng cho những người sống trong làng (tức mỗi làng
là một đơn vị tự túc về cai trị) các làng càng trở nên cô lập, không
chung sống với lân bang; mỗi làng thường không đủ năng lực làm việc gì cho to
tát.
Các chức vụ chỉ để thỏa mãn lòng khát khao danh vọng của dân quê.
Thật ít khi người ta thấy nhiều người phí phạm thời giờ và nghị lực vào những
công việc hão huyền như trong một làng Việt Nam. Và thật khó lòng tìm ở một nơi
nào khác nhiều bộ phận vô ích như làng xứ ta.
Vũ Văn Hiền
Thanh nghị
số đặc biệt Vài vấn đề Đông dương, 1945