Ý kiến của một số trí thức Việt Nam
đầu thế kỷ XX
Bắt chước không phải lối
Tính bắt chước vốn là tính tự nhiên của loài người, dẫu ở nước nào cũng thế cả.
Nhưng giá ta có sẵn cái tinh thần tốt rồi chỉ bắt chước lấy những điều có bổ
ích thêm cho tinh thần ấy thì thật là hay lắm. Chỉ hiềm vì mình để cái tinh thần
của mình hư hỏng đi, mà lại mong bắt chước sự hành động của người ta thì sự bắt
chước ấy lại làm cho mình dở hơn nữa.
Vì đã
gọi bắt chước là chỉ bắt chước được cái hình hài bề ngoài mà thôi còn cái tinh
thần ở trong, phi(1) lâu ngày nhiễm (2) lấy được mà hoá (3) đi thì khó lòng mà
bắt chước được. Thành thử bao nhiêu những sự bắt chước của mình chỉ là làm loạn
cả tính tình tư tưởng và phong tục của mình.
Có lắm người vọng tưởng (4) rằng mình cố bắt chước được người ngoài là mình làm
điều có ích cho sự tiến hoá của nòi giống. Không ngờ rằng sự bắt chước vội vàng
quá lại thành cái độc gây ra các thứ bệnh cho xã hội. Mà sự lầm lỗi ấy chỉ mỗi
ngày một thêm ra chứ không bớt đi được.
(1) không phải
(2) thâm nhập
(3) thay đổi.
Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu ghi: phàm vật này mất đi mà vật kia sinh ra
gọi là hoá
(4) nghĩ lầm
Trần Trọng
Kim
Nho giáo,
1930
Óc sùng ngoại nặng nề
Anh thợ vẽ cầm lấy cái bút là vẽ ngay phong cảnh Cô tô thành ngoại Hàn Sơn tự;
thầy đồ cầm đến cái bút là tả ngay lịch sử Hán Cao Tổ Trương Lương Hàn Tín;
anh phường tuồng ra trò là diễn ngay tấn Lưu Bị Quan Vũ Trương Phi.
Thổ sản thổ hoá (1) mà hễ cái gì tồi thì cho một tiếng “nam “vào để giễu, như
cái áo tơi gọi là áo cừu nam sột soạt, anh chàng dở người mà hay bàn thời
thế họ gọi là Gia Cát nam. Cái gì tốt thì cho một tiếng “tàu “vào để
khen, như măng khô gọi là măng tàu.
Ấy cũng vì tư tưởng đã thiên di (2)như thế mà những nhà chế tạo nội hoá rất khốn
khổ, đồ tốt không bán được phải thất nghiệp, mà những đồ thô bỉ tầm thường thì
may còn ngoi ngóp sống để kiếm ăn với những người quê mùa nghèo khó.
(1)
hàng trong nước làm ra
(2)
biến chuyển
Nguyễn Trọng
Thuật
Điều đình
cái án quốc học, Nam Phong, 1931
Khi
học hỏi người, thường thiếu tự tin
Cách học
muốn cho bằng người thì phải biến hoá khác đi. Nay cứ toàn mô phỏng, thấy
không thể theo cho bằng được, bèn sinh lòng tự tiện (1), là mình tự khinh cái
tài của mình; tự tiện quá rồi tự khí (2) tự bỏ cái tài của mình, cho mình là đồ
bỏ.
Mà
đồ bỏ thật, vì học không có cái gì dùng được như mẫu của người.
Cũng vì thế mà bao nhiêu cái hay không còn gì nữa.
Trước khi vì học thuật nước nhà mà hy vọng, ta phải hết sức từ bỏ cái căn bệnh
cẩu thả, cái tính tự tiện tự khí. Không thì về xã hội lại cứ lười biếng a
dua không suy xét lựa chọn, không có cái tinh thần tự giác tự tin. Về kẻ
học giả lại cứ tham cận lợi (3), nhai văn nuốt chữ, lấy học đường của nước văn
minh làm con đường tắt hiển vinh, học đến bao giờ cũng chung vô sở đắc (4).
(1) tự tiện đây
là tự coi rẻ mình coi mình là hèn; khác với tự tiện có nghĩa
làm theo ý thích hiện nay hay dùng
(2 ) tự làm hỏng mình
(3) lợi ích trước mắt
(4) cuối cùng vẫn không
có gì là của riêng mình
Nguyễn Trọng Thuật
Điều
đình cái án quốc học, 1931
Chỉ biết học cái bề ngoài
Người mình vốn có cái thiên tính dễ đồng hoá, nghĩa là có tư cách(1), dễ am hiểu
dễ thu nạp lấy những gì khác lạ với mình, dễ đem những điều hay điều dở của người
ngoài mà hoá làm của mình.
Nhưng cái tài đồng hoá đó thường thường chỉ là cái khoé tinh (2), biết xem xét
và bắt chước của người, phảng phất ở bề ngoài, chứ không thấu triệt được đến chỗ
căn để (3), chỗ tinh tuý.
Tỉ như thợ An Nam thì phỏng chép tài lắm; những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu
cách lạ đến đâu, họ bắt chước cũng được như hệt cả.
Cái cách đồng hoá dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt.
Như học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu được thấu,
đã hoá được hẳn những cái người ta dạy mình, và chưa chắc cái học tiếp thu được
dễ dàng như vậy nó đã làm cho óc được khôn ra, người được chín ra chút nào.
Có những người mặc thì mặc theo đúng mốt tối tân ở Paris, nói năng ba hoa đi đứng
đường đột; bề ngoài như vậy mà bề trong nghị luận mơ hồ, tư tưởng lộn xộn,
không có thống hệ (4), không biết bắt chước lấy cái lối nói năng gãy gọn, biện
lẽ phân minh như người Tây phương.
(1) nghĩa cũ: tài lực
trình độ khả năng
(2) mánh khóe ranh ma
(3) gốc rễ
(4) ngày nay hay nói ngược
lại: hệ thống
Phạm
Quỳnh
Giải
nghĩa đồng hoá, Nam Phong, 1931
Không có thì giờ lo đến
văn hoá,
đành đi vay mượn
Cả cuộc
lịch sử của nước Nam là một cuộc chiến đấu vô hồi vô hạn đối với người Tàu hoặc
bằng võ lực, hoặc bằng ngoại giao, hằng ngày chỉ nơm nớp sợ bị nội thuộc
lần nữa. Cái công của các tiên dân ta chống giữ cho non sông đất nước nhà, can
đảm vô cùng, kiên nhẫn vô cùng, thật đáng cảm phục.
Nhưng cả tinh lực trong nước đều chuyên chú về một việc cạnh tranh để
sinh tồn đó, cạnh tranh với một kẻ cường lân (1) hằng ngày nó đàn áp, để cố
sinh tồn cho ra một nước độc lập, còn có thì giờ đâu, còn có dư sức đâu mà nghĩ
đến việc khác nữa.
Cái quan niệm quốc gia bị nguy hiểm luôn nên thường lo sợ luôn chiếm mất cả tâm
tư trí lự, không còn để thừa chỗ cho những quan niệm khác về văn hoá về mỹ thuật.
Nói riêng về học thuật thì đã sẵn cái học của Tàu đó, tiêm nhiễm vào sâu
từ thuở mới thành dân thành nước, không thể tưởng tượng được rằng ngoài sách vở
của thánh hiền còn có nghĩa lý (2) gì khác.
(1)kẻ
hàng xóm mạnh
(2)Cái
lý thuyết phải theo
Phạm
Quỳnh
Bàn về quốc học, 1931
Tâm lý ỷ lại, chịu
làm học trò suốt đời
Địa lý
lịch sử, chính trị đều như hiệp sức nhau lại mà gây cho nước
ta một cái tình thế rất bất lợi cho sự học vấn tư tưởng. Bao nhiêu những
người khá trong nước đều bị cái tình thế ấy nó áp bách trong
mấy mươi đời nên dần dần lập thành một cái tâm lý riêng, là cái tâm
lý ỷ lại vào người chứ không dám tự lập một mình ; trong việc học vấn
thì cái tâm lý ấy là tâm lý làm học trò suốt đời.
Nước ta ở ngay cạnh nách nước Tàu, từ hồi ấu trĩ cho đến lúc trưởng
thành đều nấp bóng nước Tàu mà sinh trưởng, khác nào
như một cái cây nhỏ mọc bên một cái cây lớn, bị nó “ cớm “
không thể nào nẩy nở lên được.
Phạm
Quỳnh
Bàn về quốc học,1931
Học người cũng
không xong
Phàm phóng chép (1) của người chỉ phóng chép được những cái thô thiển trước,
còn đến cái tinh tuý thì phải công phu lắm mới nhập diệu (2) được.
Thử xét trong những kẻ tự xưng là hạng tân tiến (3), mấy người đã học được đến
nơi đến chốn? Mấy người có thể đối đáp nghị luận với tây, nói những chuyện văn
chương mỹ thuật, chính trị triết học mà người ta phải chịu phải phục? Hay là phần
nhiều chỉ mới học mót được mấy câu văn sáo đã đem ra mà huyễn diệu (4) đồng
bào?
Ấy là không nói những kẻ học chữ tây cũng còn chửa thông, nói một câu không khỏi
sai mẹo, mà cũng làm ra mặt thông thạo các lối văn minh mới, nhất thiết tự xưng
là duy tân cả, coi văn hoá cũ của nước nhà như cỏ rác hết.
Tưởng học được của người những gì hoá ra chỉ học được những thói tự do rởm,
bình đẳng xằng, những cách du đãng phóng túng với cái tính khinh bạc ngạo
mạn mà thôi.
Lắm lúc trông thấy cái kết quả bất lương đó mà ngờ rằng nếu học tây mà đến thế
thì thà không học nữa còn hơn.
Cái học kia làm cho người ta nước giàu dân mạnh của khéo người khôn, có đâu lại
tạo ra những cái quái vật như vậy?!
Hay mình như cái đất xấu, hạt giống tốt trồng vào rồi mọc lên cũng thành ra cằn
cọc?
(1) bắt chước
(2) đi tới cái thần
khí sâu xa của sự việc
(3) tức hạng hướng sự
học sang Tây phương, hồi đầu thế kỷ XX
(4) khoe khoang (với ai
đó)
Phạm
Quỳnh
Phong
hoá suy đồi, Nam Phong, 1932
Chưa biết trở thành chính
mình
Tôi không nhớ vị giáo sư Pháp nào, ở lâu năm bên ta, đã nói: “Những thanh niên
Việt Nam đào tạo ở trường học mới, không có một tinh thần sáng tạo chắc chắn ”.
Lời bình phẩm có vẻ vội vàng gắt gao, nhưng không phải là không có một phần sự
thực.
Vì sự thực cái bệnh ỷ lại là bệnh của ta và đã ăn sâu vào trong xương tuỷ người
nước ta, cơ hồ không gột rửa được nữa.
Không phải bây giờ mà từ bao giờ, không phải ở trong văn chương mà ở khắp các địa
hạt, người Việt Nam đã tỏ ra mình là một giống người sống một cách lười biếng
và cẩu thả.(...). Cẩu thả và biếng nhác trong sự ăn, sự mặc, sự ở, nhất là
trong sự phô diễn tư tưởng.
Tự ta, ta không hề cố gắng và tạo tác ra một cái gì hoàn toàn của ta; ta chỉ muốn
hưởng thụ những của sẵn và cam tâm làm kiếp con ve của thơ ngụ ngôn (1).
Ta đã vay mượn của người hàng xóm từ một điệu thơ nhỏ nhặt đến một đạo lý cao
xa. Hồi xưa kia chúng ta là những người Tàu, gần đây chúng ta là những người
Tây, chưa có một lúc nào chúng ta là những người Việt Nam cả.
(1) ý muốn
nói vui chơi ca hát, không biết tính xa, và sẵn sàng vay mượn để sống qua ngày.
Lấy tích từ bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine Con ve và con kiến,
bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh.
Lưu Trọng
Lư
Một nền văn
chương Việt Nam, Tao đàn 1939
Hợm hĩnh quá đáng
Một vài ông vua nước Nam đã làm cho thần dân của các ngài tưởng lầm rằng văn học
nước mình cũng ngang hàng với Trung quốc. Sự thác giác (1) ấy làm hại cho quốc
dân từ lâu nay, cái hại chẳng phải nhỏ.
Lê Thánh Tôn phê bình hai câu thơ của Thân Nhân Trung quan đại học sĩ tại triều
mình Quỳnh đảo mộng tàn xuân vạn cảnh - Hàn giang thi lạc dạ tam canh hợm
hĩnh cho rằng dù Lý Bạch, Đỗ Phủ, Âu Dương Tu, Tô Thức (2)… cũng vị tất đã nghĩ
được ra.
Gần này người ta còn truyền tụng hai câu thơ phê bình thi văn bản triều (3): Văn
như Siêu Quát vô Tiền Hán -- Thi đáo Tùng Tuy thất Thịnh Đường.
Văn học chữ Hán đến triều Nguyễn đáng gọi là thịnh hơn các triều khác; nhưng nếu
bảo vượt qua cả Hán Đường thì quá lố!
Những lời tự khoe ấy cần phải cải chánh.
(1) lầm tưởng
(2) các thi hào nổi tiếng
trong lịch sử văn học Trung quốc.
(3) tức triều Nguyễn
Phan Khôi
Khái luận về
văn học chữ Hán ở nước ta,Tao đàn,1939
Trì trệ và bất lực
Bị ý thức hệ nho giáo bảo thủ lung lạc, bị nguỵ thuyết của bọn Tống nho đưa lạc
nẻo, bị chế độ thi cử chi phối, đẳng cấp nho sĩ Việt Nam không còn một chút hoạt
lực (1) nào, không còn được một tính cách cấp tiến nào nữa.
Bởi vậy họ đã chống tiến hoá chống cải cách.
Phụ hoạ với triều đình, họ đã lấy cái học bã giả (2) của Tống nho dựng một bức
trường thành ngăn các trào lưu triết học khác không cho tràn tới địa hạt tri thức
do họ giữ đặc quyền.
Thiếu độc lập về tư tưởng, hoàn toàn phục tùng cổ nhân Trung Hoa về cả mặt tình
cảm, quá câu nệ về hình thức thơ Tàu, -- đẳng cấp nho sĩ Việt nam chỉ sản xuất
ra được những lối thơ nghèo nàn. Nhiều tập thơ mài giũa công phu nhưng không
chút sinh khí.
Qua ngay hình thức của thơ, ta cũng thấy rõ tinh thần bảo thủ của đẳng cấp nho
sĩ, và sự bất lực của đẳng cấp này trong mọi công cuộc sáng tạo xã hội có tính
chất cấp tiến.
(1) sức sống
(2)điều
ai cũng biết.
Lương Đức
Thiệp
Việt
Nam tiến hoá sử,1944
Thoả
mãn với việc
mô
phỏng bắt chước
Vô luận là vấn đề gì, về quốc kế hay dân sinh cũng như về luân lý hay triết
lý, kẻ sĩ nước ta đều thấy các thánh hiền Trung quốc giải quyết sẵn
cho mình rồi, cái công phu của mình chỉ là thuật lại để thực hành
cho xứng đáng chứ không cần phải sửa chữa thêm bớt chút gì.
Trái lại cái gì của Trung quốc có vẻ vĩ đại hay cao siêu quá, thì chúng ta lại
phải hãm lại cô lại cho vừa với kích thước khuôn khổ của
chúng ta.
Bởi thế chính trong thời kỳ toàn thịnh của nho học nước ta, người ta thấy
có những nhà nho kinh luân như Tô Hiến Thành, nhà nho anh hùng như Trần
Quốc Tuấn, nhà nho cao khiết như Chu An, nhà nho khẳng khái như Nguyễn
Trãi, mà tuyệt nhiên vẫn không thấy một nhà tư tưởng một nhà triết học
nào.
Chúng ta chỉ có những nhà nho lao tâm khổ tứ để bắt chước thánh hiền
mà cư xử và hành động cho hợp với đạo lý chứ không có
nhà nho nào dám hoài nghi bất mãn với đạo lý xưa mà băn khoăn khao
khát đi tìm đạo lý mới.
Đào
Duy Anh
Việt
nam văn hóa sử đại cương * 1950
*Đây là bộ sách Đào
Duy Anh viết ở Thanh Hóa những năm kháng chiến chông Phap. Không phải Việt
nam văn hóa sử cương 1938
Trích
từ bài Ta & người
đã
đưa trên blog này 18 thg 9, 2011