VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Những chỗ yếu của dân ta khi tiếp xúc với văn hóa nước ngoài ( phần 1)


 Ý kiến của một số trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX

      Đằng sau câu chuyện về tính ưa dùng hàng ngoại, thật ra có ẩn dấu những vấn đề lớn lao của mối quan hệ giữa cộng đồng người Việt mình với các cộng đồng mà chúng ta có tiếp xúc trong suốt trường kỳ lịch sử.


Trong các công trình nghiên cứu văn hóa của một quốc gia,  thường người ta không quên để riêng một phần nói về lịch sử giao lưu văn hóa của nước chủ nhà với các nước khác, các nền văn hóa khác.
          Nhu cầu tự nhận thức buộc người ta phải làm vậy.
          Không một dân tộc nào chỉ sống khép kín mà không quan hệ với các cộng đồng khác.
          Tối thiểu thì trong mối quan hệ này, các dân tộc sẽ học hỏi để ngày mỗi trở nên mạnh mẽ hơn giàu có hơn.       
         Còn nói cho to tát ra thì đây chính  là chỉ số đánh dấu trình độ  trưởng thành của mỗi dân tộc  với tư cách một bộ phận của nhân loại.
         Trong quá trình này, ý thức về ta và người nẩy sinh, nó cũng là một khía cạnh làm nên  tâm thế làm người, một hằng số lặp đi lặp lại ở nhiều thế hệ.
         Hiện trong các công trình nghiên cứu về văn hóa VN,  vấn đề này gần như chưa được đặt ra.
         Song ở dạng những nhận xét tạt ngang, nó đã được các nhà trí thức các nhà hoạt động văn hóa trong quá khứ quan tâm và phát biểu đây đó.
       Mấy năm trước chúng tôi đã trích lục một số ý kiến này để đưa vào mục Người xưa cảnh tỉnh, in rải rác trên mặt báo.
       Nay xin hệ thống hóa lại và giới thiệu chúng theo trình tự thời gian mà các tác giả đã phát biểu. Các đầu đề nhỏ là do người biên soạn đặt.


Sống như mơ ngủ
      Nước ta từ ngày Pháp sang bảo hộ trên mấy mươi năm, người mình học Tây học chỉ làm được việc phiên dịch nói phô mà thôi, không có ai hấp thu được chỗ tinh tuý, phăn (phanh) tìm đến nơi màu nhiệm về mà đào tạo ra học trò để làm việc vẻ vang cho nòi giống. Trái lại, bụng không một hạt gạo mà nói chuyện thi thư (1), tay không nửa đồng mà tự xưng Khổng Mạnh. Có lẽ da thịt huyết tuỷ của người nước mình mấy ngàn năm nay đã bị cái hấp lực của huyết dẫn người Tàu chi phối hết cả, nên ngày nay đành làm nộm rối cho người Tàu mà không tự biết chăng? Không thế thì sao lửa đốt bên da mà không biết nóng, sét đánh ngang trán mà không biết sợ, thày hay bạn giỏi ở một bên mà không biết gắng sức bắt chước bước theo. Thậm nữa trằn trọc tráo trở, một hai toan tìm một nước thứ ba nào yêu thương mình mà vui lòng làm tôi làm tớ.
    Hiện trong lúc ngủ say mới tỉnh, xu hướng chưa định, học mới học cũ ngả đường phân chia công hội thương hội chương trình chưa nên, thành hiện ra một cái quái tượng, đầy nhà rối rít ồn ào, chưa giải quyết vội được.

(1)   Nghĩa gốc: Kinh Thi và Kinh Thư. Ở đây chỉ việc học hành ở trình độ cao 

 Phan Châu Trinh
 Hiện trạng vấn đề, 1907

Tuỳ tiện cẩu thả trong giao lưu tiếp xúc
   Xét nước ta các đời thụ phong Trung quốc chỉ là chính sách ngoại giao cho nên coi là trò chơi, không coi là vẻ vang.
       Kẻ lấy Trung quốc làm ỷ lại, ắt là vào thời cuối (1): vua nhác, tôi nịnh, binh bị không sửa sang, coi họ như cha mà quên điều nanh ác. Thời cuối các đời Trần, Lê đều có, mà triều ta (2) lại càng nhiều.
      Sứ thần ngày xưa làm nhục được người Trung quốc coi như vinh dự. Những kẻ đi việc sứ đời sau lấy việc được một bài thơ, bài văn, một lời than tiếng cười của sĩ phu Trung quốc trở về để khoe khoang với bạn bè làm vẻ vang.
      Mặt này lại là một điều suy sút của sĩ phu nước ta.

(1) tức giai đoạn suy tàn của một triều đại
(2) triều ta đây tức là nhà Nguyễn
 Phan Châu Trinh
 Nước Việt Nam mới sau khi Pháp Việt liên hiệp,1912

Sang đến xứ người
cũng không biết đường học hỏi 
    
     Người nước ta thường tự xưng là đồng loại, đồng đạo, đồng văn (1) với Nhật Bản, thấy họ tiến  thì nức nở khen, chứ không khi nào chịu xét vì sao họ được tiến tới như thế ? Họ chỉ đóng tàu đúc súng mà được giàu mạnh  hay họ còn trau dồi đạo đức sửa đổi  luân lý mới được như ngày nay ?
      Tôi rất lấy làm lạ cho những người đã qua Nhật về, không đem cái hay cái tốt về cho dân nhờ  mà chỉ làm giàu thêm tính nô lệ !
       Hay là người  mình như kẻ đã hư phổi rồi cho nên một nơi có thanh khí như nước Nhật mà cũng không thở nổi chăng ?!
       Lấy lịch sử mà  nói thì dân tộc Việt Nam  không phải là không thông minh, thế thì vì lẽ nào ở dưới quyền bảo hộ hơn 60 năm nay (2) mà vẫn còn mê mê muội muội  bịt mắt vít tai  không  chịu xem xét không chịu học hỏi lấy  cái hay cái khéo của người. 

(1) cùng theo đạo Khổng cùng sử dụng chữ Hán
(2)  tính tới thời điểm  tác giả nói trong bài này, nước Pháp mới đô hộ nước ta 60 năm 
                                                                           
                                                                                                      
                                                                            Phan Châu Trinh
 Đạo đức và luân lý Đông Tây, 1925      

Dễ ỷ lại
   Tục ngữ có câu rằng Tháp đổ đã có Ngô xây – Việc gì vợ goá lo ngày lo đêm. Tháp đó là tháp của ta, ta không xây được hay sao? Nghểnh đầu nghểnh cổ trông ngóng, nếu Ngô không sang thì vạn tuế thiên thu chắc không bao giờ có tháp. Tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng dòm, nghiễm nhiên một đống bồ nhìn rồi hẳn. Hỏi vì cơn cớ làm sao? Thì chỉ vì ỷ lại.
   
Phan Bội Châu
 Cao đẳng quốc dân,1928

Thạo sử người hơn sử mình
      Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và nòi giống dân ta như thế nào.
       Họ chỉ biết Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ ra làm sao.
        Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt, mà không biết các bề tôi Tô Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào.
       Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao chót vót, sông Hoàng Hà cao thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới, sông Cửu Long ở Nam Kỳ phát nguyên từ nơi nào.
      Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa cả.
        Người nước ta lại còn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đã không chịu học hỏi cách biến chế, óc sáng kiến của họ, mà lại đi tiêu thụ hàng hoá giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ hàng tơ lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2) …, chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung quốc về dùng. Rồi dần dà lâu ngày, linh hồn của dân ta tự nhiên bị đổi dời, trí não của dân ta tự nhiên bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta chuyên trọng Bắc sử (3) mà thôi.

(1)   Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin v..v..
(2)   Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn
(3)   Tức lịch sử Trung Hoa
 Hoàng Cao Khải
 Việt sử yếu, 1914

Học đòi làm dáng một cách sống sượng
      Cứ chiều đến, độ sáu bảy giờ, đứng ở góc hồ Hoàn Kiếm, trông kẻ đi qua người đi lại, thấy ngứa mắt quá. Nhất là trông mấy ông ăn mặc quần áo Tây. Gớm sao mà khéo bắt chước, giá sử sự học hành, sự buôn bán mà cũng bắt chước được khéo thế thì hay quá! Ông cổ cồn trắng, cổ nút xanh, nút đỏ, đầu thì mũ cỏ, tay thì ba toong, giày thì bóng nhoáng, hai ngón tay thì khéo gẩy gẩy cái nách áo gi-lê. Ông ngồi xe thực khéo lấy dáng. Ngày xưa cái ô lục soạn, cái điếu thuốc lá bọt. Nay những cái ấy đã cho là đồ cũ rồi. Cái xe Nhật Bản bây giờ cũng bỏ. Bây giờ có xe cao su, êm hơn mà ngồi ưỡn ra bệ vệ hơn nhiều. Tay cầm quyển sách hay là cái nhật trình (1), mắt giả lờ trông thì lại ra tuồng (2) nữa.
     Em (3) thực là người hiếu (4) sự duy tân. Cách ăn mặc An Nam đội cái khăn bằng cái rế, búi tóc như quả bưởi, áo lướt tha lướt thướt, giày lẹp cà lẹp kẹp, móng tay gãi đầu như người rũ chiếu, thì cũng bẩn lắm thực. Em cũng muốn rằng người An Nam ăn mặc cho gọn gàng sạch sẽ diện mạo tinh nhanh, nhưng mà thấy những trò sài sơn (5) của các ông cũng ngứa mắt lắm.
 Nguyễn Văn Vĩnh
 Đăng cổ tùng báo, 1907
(1) báo ra hàng ngày
(2)    trông có vẻ phường tuồng
(3)   bài này in trong mục Nhời đàn bà của Đăng cổ tùng báo, ký Đào Thị Loan nên tác giả xưng em
 (4)    ưa thích
 (5) chúng tôi chưa tra cứu được chỉ đóan là  làm dáng ăn diện


Thị hiếu tầm thường
       Cái lý thú của nước Nam ta nhỏ mọn lắm.
       Kìa cái đồng hồ từ tám mươi đời thì quấn vải tây điều, kết quả găng. Nọ núi non bộ khéo chắp tỉ mỉ trong trồng cây uốn con phượng. Cầu quán con con, thuyền bé lí tí. Câu đối với tranh thì hết tứ thời phong cảnh lại đến thiên lý giang sơn.
       Thi hoạ nhỏ nhen, thi chẳng ra thi hoạ chẳng ra hoạ.
        Giang sơn treo cửa sổ, sơn thuỷ để đầu giường. Hoành phi câu đối thì chữ nghĩa đẹp phẩy mác hơn đẹp ý tình (1). Đồ chạm đồ cẩn thì tỉ mỉ con dơi già quả mướp non, người ngoại quốc mua cho cũng là thương công hơn trọng khéo. Ghế giường bàn tủ dáng dấp nặng nề.
       Nói tóm lại thì người Nam mình chưa cái gì là cái khéo. Mà càng bắt chước Tây bắt chước Tàu bao nhiêu, càng xấu bấy nhiêu.
        Người mỗi ngày một hay, vi xảo là thông ngôn ông Tạo hoá (2). Ta mỗi ngày một đổ (3), vi xảo là cơn hứng chí điên cuồng. Học chẳng phải mà bắt chước chẳng phải.
        Xảo nghệ muốn noi theo ngoại quốc, là phải noi lý tưởng chớ không nên bắt chước phù hoa. Kẻo mà khéo thêm ra chẳng thấy đâu, lại đang nghề nguyên lành hoá nghề lang lố (4).

(1)   phẩy mác là tên gọi các nét trong chữ Hán.
(2)   vi xảo: sự kỹ lưỡng khéo léo; cả câu ý nói sự hoàn chỉnh của sản vật đạt đến mức như là tự nhiên sinh ra đã vậy.
(3)    kém đi, hỏng đi
(4)   Nghĩa như nhố nhăng
 Nguyễn Văn Vĩnh
 Đăng cổ tùng báo, 1907

Vay mượn tuỳ tiện
thêm thắt lung tung  
      Ngày nay có cải lương (1) gì, thì chỉ sợ rằng trái đạo lý cũ của mình.
         Đạo lý cũ của mình là thế nào có ai biết đâu? Con khóc cha mà cúng phải tìm trong Thọ mai gia lễ hay là Văn công gia lễ, xem ngày xưa ở bên Tàu các ông ấy khóc cha ra làm sao, thì cứ thế mà khóc.
         Gián hoặc (2) trong hai cách có điều gì khác nhau thì cũng biết vậy, lúc túng việc thì vớ được quyển nào theo quyển ấy. Gọi là cho nó theo một lệ nào đó, thì là nhà văn phép.
         Trong cả các trò chơi, như hát tuồng, hát chèo cũng hay bắt chước những cách vô lý.
        Tấn tuồng thì lấy trong các sự tích của Tàu, mà lúc ra hát thì quên cả đến thời đến xứ (3). Cứ nhân chỗ nào hát được mấy câu nam thì nam (4) cho mấy câu. Chỗ nào có dịp khôi hài thì khôi hài. Thấy người xem có mấy người dễ cười, thì làm mãi.

(1)               cũng tức là cải cách
(2)                thỉnh thoảng, giá như
(3)               thời ở đây tức niên đại thời gian, xứ tức hoàn cảnh không gian
(4)               nam: vốn được hiểu là những gì mang tính cách thuần Việt. Đọc chệch thành nôm. Chữ nam thứ hai thì dùng như một động từ

 Nguyễn Văn Vĩnh
 Tật huyền hồ sáo hủ, Đông dương tạp chí,1913

Học không biết cách
      Về đạo cương thường cứ nói rằng ta thâm nhiễm (1) của Tàu nhiều lắm rồi, nhưng tôi xét ra chưa có điều gì gọi là thâm nhiễm cả.
        Trong hết cả số người theo Nho học thì hoạ là có mấy ông vào bực giỏi, hiểu biết được đạo Khổng Mạnh. Còn những bực nhoàng nhoàng thì thường cứ thấy người ta học cũng học, học cho thuộc cách mà thôi, chứ không có định trong bụng rằng theo những điều nào, kháp (2) đạo ấy vào tính tình riêng của người nước mình nó ra sao...
        Vua Gia Long bỏ luật Hồng Đức (3) đi, mà làm ra cả một pho luật mới chép tuốt cả của Tàu, cả từ điều nước mình có, cho đến những điều mình không có, cũng bắt chước. Thành ra luật pháp cũng hồ đồ. Cương thường đạo lý toàn là giả dối hết cả, không có điều gì là có kinh có điển.

(1)                ảnh hưởng sâu sắc
(2)                tức khớp, ghép lại cho khít, cho phù hợp
(3)               bộ luật cổ của nước ta có từ thời Lê, tham khảo nhiều từ bộ luật của đời Đường

 Nguyễn Văn Vĩnh
 Đông dương tạp chí, 1913

Học đòi vặt vãnh
bỏ qua chuyện lớn

      Quái lạ cho người đời, hễ ai bảo cải lương lối nhà cửa ở, hay là cải lương ách ăn mặc bắt chước theo lối Âu Tây, thời đua nhau như vịt; còn nhỡ ai khuyên bảo nên cải lương những thói xấu nết hư -- chốn hương thôn không nên tranh giành kiện tụng nhau, ở với bè bạn thời phải giữ lòng trung tín --   thời dẫu nói rát cổ bỏng họng cũng chỉ lờ đi, chớ không thèm nghe.
                                                                                               Nguyễn Bá Học
                                                                 Di ngôn, do Nguyễn Bá Trác thuật, Nam Phong, 1921

Nặng tính hiếu kỳ
    Cái tính hiếu kỳ  là cái bệnh chung  trong lối học của ta, xưa kia học chữ Tàu, đọc sách Tàu, lâu dần quá mê chuộng  mà khinh rẻ những cái của mình.
       Cái gì của Tàu cũng cho là hơn mà chịu khó nghiên cứu, cái gì của mình  cũng cho là dở là kém không thèm nhìn tới.
        Thành ra núi sông đình miếu  nước Tàu thì biết  mà núi sông đình miếu nước mình thời không hay; danh lam thắng tích bên Tàu thì rõ mà danh lam thắng tích nước mình thì không tường; lịch sử địa dư nước Tàu thì thiệp liệp (1), mà lịch sử địa dư nước mình  thời mịt mù; phong tục nhân vật nước Tàu thời tường tất  mà phong tục nhân vật nước mình thời tối tăm.
         Mà có phải mình thiếu gì cái  đẹp cái hay, cái đáng ngắm …

(1) cũng  có hiểu ít nhiều
                                                                                              Dương Quảng Hàm
                                                          Học sao cho phải đường, Hữu thanh, 1921

Trích từ bài Ta & người
đã đưa trên blog này 18 thg 9, 2011


Please Select Embedded Mode For Blogger Comments

Mới hơn Cũ hơn