Loạt nhật ký chiến tranh này của tôi, đã đưa rải rác trên blog mấy năm nay và kết lại bằng phần Những
tháng ngày ngột ngạt -- nhật ký Hà Nội 1974 (kỳ II) đưa ngày 5-5 - 2014.
Sau đây là phần cuối của cuốn
NHẬT KÝ CHIÊN TRANH phần bắt
đầu từ 2-1-1975 và khép lại vào ngày 2-5-1975.
Đầu
1975
2/1
Hà Nội
mùa xuân, bao nhiêu màu xanh rút lại cả cho trời, và bao nhiêu màu đỏ, rút cả
vào cho hoa gạo. Tôi đã thấy nhiều hoa gạo, nhưng đẹp nhất vẫn là những khi
cành gạo nghiêng nghiêng hướng về phía mặt trời, cái cảnh này tôi chưa thấy bao
giờ, và chỉ mùa xuân năm nay, trong cảnh đèo mì chạy gạo về nhà, tôi mới bắt gặp
hoa gạo bùng nổ như vậy.
Mùa xuân là gì? Là những mùa xen kẽ nhau. Sớm
mai lành lạnh như trời rét. Trưa trời xanh nao lòng như một ngày hè. Cùng ra vẻ
ngày hè là những viên đá rải đường, đá trắng lên sau mưa.
Mùa xuân khuyến khích tất cả sinh sôi.
Trên tất cả, mùa xuân là mùa của khả năng, tất
cả cái khả năng đều hình thành, và đều hứa hẹn, khiến mỗi chúng ta đều thấy nao
lòng. Cả những khả năng tốt lẫn khả năng xấu đều có mặt. Mùa xuân nuôi dưỡng
nhưng cũng có thể giết chết chúng ta bởi sự choáng ngợp của nó. Mùa xuân làm
chúng ta sướng run lên, nhưng cũng là mùa xuân gây bao nhiêu khốn khổ. Mùa xuân
phiền não, bởi mùa xuân quyến rũ.
Thà
cứ như mùa hè mùa đông, nó thách thức bằng cái vẻ cay nghiệt của nó, lại khiến
chúng ta bình tâm.
Thà cứ như mùa thu, ta tiếc nuối một cái gì
đã qua bởi ngần ngại nhìn về phía trước.
Mùa
xuân ngược lại với tất cả những mùa còn lại.
Sao đôi lúc, tôi cứ sực nghĩ, thấy nhớ lại
những kỷ niệm mấy năm qua.
Cuộc chiến ghê gớm này, chính vì mong muốn
qua đi, nên phải xem lại nó một cách cẩn thận. Bài học của kháng chiến chống Mỹ,
không ngoài bài học hành động, bài học sống. Sống có phương hướng, sống cả quyết,
sống biết bằng lòng với hiện tại, sống thận trọng với những gì đang có nhưng lại
biết chuẩn bị cho những ngày tới.
Nếu hỏi ngay về khu 4, rất lộn xộn, tôi nhớ
rất nhiều.
Nhớ
con đường thẳng ở Kỳ Anh (hiếm có nơi nào đường thẳng như vậy). Nhớ đèo Ngang, chỗ
mưa chỗ nắng; nhớ cái miếu bên đường, nơi các văn nhân thi sĩ đi qua thường ghé
lại.
Những em bé kéo vó trên phà Ròn, trên Quán Hầu.
Chiếc xe ô tô lặn lội vượt qua những quãng
ngầm gần đèo Lý Hoà.
Bụi mù trên con đường Đá Mài... Đoạn đường
xóc, đường đỏ bụi, từ Vĩnh Linh ra Đồng Hới...
Miền đông và miền tây của khu Bốn, bắc và nam của khu Bốn. Có nơi hoang vắng, tưởng như chỉ là một mảnh đất, để
cho những TNXP đi qua bộ đội đi qua. Nhưng bỗng chốc, người dân khu Bốn đó, như
một thứ thổ dân kỳ dị, hiện ra như cây cỏ, như một thảm cỏ dại và hoa rừng nảy trên mảnh đất cằn.
Quan hệ giữa hậu phương và tiền tuyến giữa
người dân và chiến sĩ, đến với đất khu Bốn, thành ra một thứ quan hệ kỳ lạ: những
sự nương tựa vào nhau, những sự bóc lột nhau, vừa thương mến, vừa hành hạ. Đi
thì nhớ, ở thì thấy “kỳ “ không quen.
Những ông già bà già tham lam. Những dải
cát dầu dãi.
Cái trù phú của khu Bốn. Cũng có trù phú đấy
chứ, những xóm làng trên kia, trên Hương Sơn... Còn dưới đồng bằng này chiến tranh đã cày xé tất cả.
Cái cằn cỗi của khu Bốn. Thì hẳn rồi! Cái cằn cỗi khiến cho sự sống được đẩy tới
cái ranh giới với cái chết, và chiến tranh thành một lẽ sống.
Tôi
cũng không bao giờ quên được lần đi bộ trên đường số 1.
Đường ô tô tắc, từ Vinh ra đến Thanh Hoá, có
đoạn chúng tôi đi ngay giữa đường số1. Một
buổi chiều lặng lẽ, con đường vắng vẻ, những hàng cây phơi ra trong nắng. Làm
gì có chiến tranh ở đây nếu không có những quãng đường bị bom đánh đất đỏ phủ đầy
đường? Không, nó đấy, chiến tranh đấy, chỉ
có trong chiến tranh mới có những đoạn đường nhựa sạch bong không người qua lại.
Những quãng nghỉ, gần như chúng tôi có thể nằm
bò ra đường được. Nhìn ra chỉ có một ít người dân của mấy làng xóm
quanh quẩn ở đấy, và một vài người đi xe đạp.
Cứ thế, thẳng mãi con đường thông ra đến tận
Hà Nội. Nhưng làm gì có chuyện thẳng mãi, nên mới lại cảm thấy quyến luyến với
những quãng đường ngắn ngủi này.
Trở về thăm Hà Nội những ngày sơ tán, đôi khi
tôi cũng gặp cái cảm giác thanh vắng vậy.
Phố xá sạch sẽ một cách kỳ lạ, sự thanh tĩnh chỉ có trong những năm chiến tranh.
26/1
VN khác thiên hạ thế nào?
Ở các nước ăn chậm đi nhanh, nước mình ăn
nhanh đi chậm. Mọi thứ đều đắt, chỉ có người là rẻ.
Ở các nước, sản xuất mẻ đầu bao giờ cũng
là thí nghiệm những mẻ sau sẽ khá hơn. Ở nước mình, chỉ được có mẻ đầu là khá.
Những mẻ sau, sẽ kém hơn năng suất hụt, chất lượng yếu đi.
Người Việt Nam hôn thì hôn bí mật đái thì
đái công khai. Nhà như đường, đường như nhà. Cứ xem như giao thông thì biết.
Người trào ra đầy đường. Người cản xe đạp, xe đạp cản ô tô. Muốn lách đi, nhiều
lúc tốt hơn hết là lách vào trong, chui vào giữa mớ thòng lọng đó...
...
Tôi còn biết mô tả thế nào khác hơn -- Đó
là cái xã hội tôi đang sống.
Lòng yêu đời không sao phai nhạt nổi trong lòng. Đọc sách, tôi luôn tìm được
những câu nói lạc quan, và tôi hiểu là phải lạc quan. Nhưng nhìn ra đời, lại chỉ
thấy bi quan.
Một phương diện khác, dạo này tôi hay nghĩ
ngợi, là cả cái phương Đông này nó vậy. Có lẽ tôi sẽ không nên tìm đọc phương
Tây, vì đọc xong đối chiếu, chỉ thấy xã hội phương Đông là ngán ngẩm.
Một ví dụ tôi mới tìm thấy, là Hàn Tú Anh.
Phải chính Hàn Tú Anh nói, là ở phương Đông ở xứ Trung Hoa này, người ta không
quan niệm sống là hưởng hạnh phúc.
Một nhà triết học Mỹ, nói về đời sống tinh
thần con người trong chiến tranh.
Không biết rằng về sau này nhân dân sẽ
coi các sĩ quan, các quân nhân là những người anh hùng hay là những bọn đểu giả.
Phần lớn bọn họ cho rằng hiện nay nên đơn giản thôi, không nên chú ý đến vấn đề
nhân tâm đạo đức, quên nó đi được chừng nào hay chừng ấy. Tốt hơn hết là hãy
nên để cho lương tâm yên ngủ, người ta làm gì thì mình làm nấy, lệnh bảo sao
thì cứ làm như vậy. Còn tương lai ra sao mặc nó. Ai mà biết được tương lai rồi
sẽ ra sao? Hầu hết lính tráng trong thời chiến đều cảm thấy họ bị hoàn toàn phụ
thuộc vào cuộc sống họ đang sống, đến nỗi họ đành chịu phó mặc tương lai và ý
nguyện của họ cho cấp trên, và chỉ biết sống một cách thoải mái trong cái đám
đông vô danh tiểu tốt mà thôi.
29/1
Ông Khải:
-- Ở nước mình bây giờ, chẳng ai có
gì tài cả, chỉ có người nói là tài. Như hôm họp ở Nxb QĐND, thằng Lựu nói hay
quá còn gì? Chỉ có nói thì nhất trí từ trên xuống dưới.
---- ...
-- (nhiều lần) Thật là từ trên uống
dưới toàn chữ là chữ, lúc nào cũng thấy chữ.
--- ...
-- Ông I. vừa kể chuyện có một người giúp việc. Bà này buôn
bán rất giỏi, cứ ra chợ trông thấy cái gì có thể kiếm được là bà ấy mua ngay. Một
lần ra thấy người ta bán pin, bà ấy ẵm con bé con vào mua được một đôi, lần sau
lột áo mình thay bằng áo đứa trẻ, vào mua được đôi nữa, ra bán lấy tiền.
Trước cách mạng bà ta cũng đi ở.
Sau cách mạng, bà ta cũng đi ở. Chỉ được cái trước người ta gọi là người ở, nay
là người giúp việc, và có thể gọi ông chủ bằng cậu, ai đến chơi, cũng cung kính
quý mến, người nhiều tuổi gọi bằng bác, người ít tuổi gọi bằng mẹ, thế là phấn
khởi rồi. Một người dân thường cũng thích chữ, thích tiếng, còn nói gì ai?
-- ...
-- Thật lắm lúc, trông thấy ai
cũng chán. Như bên Hội Nhà văn, bà Lê Minh lúc nào cũng thì thà thì thào. “Này,
bây giờ ông đi là phải lắm...”, ông Trọng Hứa trêu mình nói vậy. Trông ông Trọng
Hứa ngồi sau xe ông Linh Chi, hai anh em đèo nhau đi, cứ như là hai con chim
già, tởm không chịu được.
Chiều nào cũng thấy mấy ông đánh
cầu lông mà sốt ruột, không buồn nhìn nữa.... Ông Hữu Mai thì lại lúc nào cũng
ra vẻ quan trọng, bí bí mật mật. Nhà văn gì mà lại chỉ lo nên viết về đề tài
nào không quân hay xe tăng.
1/2
Cái câu thơ hay nhất tôi đọc được trong
năm 1974 là của Thi Hoàng
Trời cứ xanh như rứt ruột mà xanh
Cây cứ biếc như vặn mình để biếc.
Dù sao chăng nữa, vẫn phải nhận là cuộc đời
quá đẹp. Trong cái dáng lem luốc của nó, cuộc đời vốn thực là đẹp. Đẹp ở những
đôi trai gái đi bên nhau, suốt chặng đường này tới chặng khác, như vốn sinh ra
phải như vậy. Đẹp ở những đứa trẻ sạch sẽ, mặc ấm, ẵm nó lên tay, nóng sực cả
người. Sao trẻ con bây giờ khôn ngoan vậy, tôi chợt nhận ra trong chuyện với một
người bạn. Nhìn chúng lê la ra đường, như cả đất trời này của chúng, cuộc đời
này của chúng, tôi cứ thấy cất lên văng vẳng cái khẩu hiệu trong một buổi hội
nghị quốc tế nào đó: Chỉ có một trái đất. Chỉ có một cuộc đời.
... Phải sống nhiều lắm, người ta mới bằng
lòng với im lặng. Còn bình thường ra, sao mà cần nghe một cái gì đấy, tiếp xúc
với một cái gì đấy.
18/3
Đó là
buổi chiều thứ sáu 14/3. Tự nhiên Nghị nói với tôi là em của tôi có thể được đi
học ở Đức. Tôi run cả lên, và lặng người đi một lúc... Cảm giác vui có, tôi
nghĩ đến cả tương lai của Thư, lẫn những thùng hàng hoá đồ đạc lúc nào đó cậu
em mang về cho mình. Nhưng còn những cảm giác buồn bã ngấm ngầm. Giá kể như tôi
được đi một chuyến, thì thú vị bao nhiêu. Tôi tự thấy ham học, ham sống và ham
hiểu biết, tôi còn có thể làm được bao nhiêu điều hay, mà rồi có lẽ, do chỉ sống ở đây, đời tôi sẽ héo
tàn, chẳng làm được việc gì nên hồn cả.
Những chuyện lặt vặt của đời sống hàng
ngày, nó ăn mòn, làm hỏng bao ý nghĩ trong tôi. Hoàn cảnh chung quanh, một cái
hậu phương chiến tranh nhốn nháo. Một xã hội sống không còn luật lệ gì hết, mạnh
ai nấy sống. Người rất rẻ, mọi chuyện rất nhạt nhèo. Chỉ còn bản năng kiếm sống
hoành hành và trở nên hợp lý, đến nỗi trông một kẻ phất lên kiếm chác phát ghét
đã đành, cả những kẻ lương thiện gàn quải cũng đáng ghét vô cùng.
Đó là cái xã hội hôm nay tôi sống. Một người
như ông Mạn có lúc phải bảo: Đời nhảm nhí thế nên ngày xưa mới có những người
đi tu, đi ở ẩn, đi tự tử. Có gan làm những chuyện khác người thì làm đi, nếu không thì cũng phải sống như mọi
người, hãy biết sống như mọi người.
Nhưng cái mà gậm nhấm tôi không kém, cũng
là cái nghèo, hoàn cảnh gia đình tôi quá nghèo. Biết xoay sở làm sao, đúng là gần
như không dám làm gì nữa. Luôn luôn chỉ sợ mất cái nọ, bị lừa cái kia, và phí
phao một cái khác. Thế đấy, chẳng nhẽ chỉ còn có cách nghĩ: Thôi, người ta cũng
phải có lúc chết, lúc ấy sẽ được giải thoát. Chứ sống nhiều lúc kinh khủng quá.
Một trong những điều kinh khủng khác riêng
có ở tôi, là sự cô độc. Cô độc như một thứ da thịt xé không ra, cô độc như
không khí trốn không nổi. Cô độc như một thứ bệnh mãn tính, nhiều lúc tưởng như
đã khỏi rồi, vẫn thấy nó đấy. Cô độc đến nỗi thiếu đi tất cả những gì có thể
làm cho con người bốc lên, sôi sục lên, do đó cuộc đời càng trở nên buồn tẻ.
Bởi không có một cuộc sống bình lặng bảo đảm,
bởi không có những lúc xả hơi, nên dạo này tôi gần như không làm được việc gì nữa:
lúc nào cũng căng thẳng thì còn sống làm sao.
Người cùng nhà với tôi hiện nay là một gã
chuột... Không biết gã hay ả, hồi nọ cứ thấy cắn đủ mọi thứ. Khéo hồi ấy nó chửa
cũng nên, vì đúng ngày hôm nay, thấy đâu đến hai chuột con chạy loăng quăng
theo đường của chuột lớn. Có một cái gì đó rất khó chịu khi phải nhìn lũ chuột
này. Như thế mà cũng là dấu hiệu của cuộc sống ư, cũng là cái gì sinh động, đi
về, rồi cũng sinh sôi nảy nở mãi ư? Nếu có một đấng tạo hoá, thì cũng thấy khó
hiểu cái ông ấy quá. Ông ấy dung dưỡng cả những cái tốt dẹp nhất lẫn những cái
tệ hại nhất.
Vậy là chỉ có cách quay về triết lý "sống cho nhiều, cho thoả mãn" của
Xuân Quỳnh?
Vậy chỉ có cách đóng những vai kịch trong cuộc đời, rồi lại tự xem mình, tự lý giải mọi chuyện?
Vậy chỉ có cách đóng những vai kịch trong cuộc đời, rồi lại tự xem mình, tự lý giải mọi chuyện?
... Không, cũng chưa chắc đâu.
Khiến tôi bình tâm trong những lúc này, chỉ
là một vài số phận khác: Nguyễn Đình Thảo đi Tây Nguyên một năm nay, giờ cưới vợ.
Tô Hoàng đau ốm không đi làm được, bố phải đi kèm mỗi lần đi đến đơn vị. Toàn
những người không may cả. Tôi còn may mắn hơn họ nhiều. Tội gì mà cứ phải nghĩ
về đời trong khi đời chẳng chịu nghĩ về mình gì hết?
Ngay ở những người chung quanh bất hạnh của
cũng không vừa đâu. Ông Khải năm ngoái con chết, ông Khải phải sống chung với tất cả mọi người, bất hạnh
như mọi người - cái ông Khải ấy cũng khổ sở chứ.
31/3
Mùa
xuân như một khả năng với nghĩa có những ngày nắng đấy, mà lại mưa đấy, mưa lai
ra lai rai, không ra làm sao. Có những ngày lúc nào cũng âm u âm u, trời đất
như một thứ nước muối, ướt, nhớp nháp, lẩm cẩm, khó chịu. Trông thấy hoa gạo nở
bùng lên, lá bàng đâm ra nhọn hoắt mà sợ hãi. Bao nhiêu sâu bệnh nổi lên, bao
nhiêu cái hạ cấp trong cuộc đời nổi lên. Nhớ một lần, ai đó nói về Nhị Ca: Ở
ông ấy toát lên sức sống của một người đang chết.
Trời
đất bây giờ hình như là như vậy. Sống giữa nó tôi đâm quen, tôi cũng không
thích được một cái gì khô ráo, sạch sẽ, tinh tươm. Nó – cái bình thường ấy --
tôi thấy nó xa lạ. Lúc này tôi chỉ ước ao một cái gì bề ngoài như đang chết,
đang đông cứng lại, nhưng nó giúp cho những sự sống khác nẩy nở. Sự sống kỳ lạ
thế, có lúc nó cần đến cái chết để biểu hiện, chính cái chết, không gì khác,
cũng là một thứ có sức biểu hiện -- biểu hiện sự sống.
4/4
Chiến thắng bất ngờ như ở chỗ cái gốc gạo
khô cằn hôm qua, một đoá hoa nở toé lên, cả một cành hoa một cây hoa.
Tôi đã quen hoài nghi, nên tôi chẳng còn
nghĩ được gì nhiều. Nhưng phải chăng cuộc đời còn quá nhiều chuyện kỳ ảo? Tôi
nhớ lại kết luận đó của Nguyễn Khải, khi nghe chuyện ông Chưởng Cần, một năm
trước. Cuộc đời không phải là một cấu trúc lạnh toát, nghiệt ngã. Cuộc đời còn
là một cái gì đó rất sinh động, như một cơ thể mềm mại, chứa đựng nhiều khả
năng phát triển không sao có thể lường trước. Vậy thì anh đừng bao giờ coi là
có giới hạn sức lực của anh, con đường của anh. Anh đừng bao giờ tự hạn chế lại.
Muốn hay không muốn, anh vẫn phải sống gắng gỏi trong cuộc đời này. Vậy anh hãy
thử phá đi, thử đòi hỏi, thử thay đổi đi, hỏng thì thôi, không sao. Đời có gì
đâu mà tiếc? Còn nếu được, thì hay quá,
mà sao lại không được?
...
Tôi nghĩ về trường hợp của mình: Dẫu sao
thì tôi cũng ít gắn bó với cuộc chiến tranh . Tôi không hiểu lắm. Chỉ
hiểu một ít khía cạnh nào đó.
Vậy thì hãy nghĩ về tương lai, lúc này đã
phải nghĩ tới đất nước sau chiến tranh.
Đó mới là một câu hỏi lớn.
18/4
- Cái chiến thắng mà chính những người
trong cuộc cũng cảm thấy ngạc nhiên: sao mà lại có thể dễ dàng như vậy?
Không, chắc chắn rằng chúng ta không có quyền ngạc
nhiên. Chúng ta biết tất cả thì mới phải.
Bởi chúng ta đều là những người chiến
trường. Có sự gặp nhau ở trong kia, thì cũng là có sự gặp nhau ở ngoài này. Những
người vợ, những gia đình của những người lính làm nên cái hậu phương dày đặc
này. Ở đâu lại có thể có cuộc chiến tranh ghê gớm như trên nước Việt.
- Nhưng cái tâm trạng chủ yếu của ngày hôm
nay là gì? Tôi nghe bên cạnh những niềm vui, có những nỗi buồn. Một chút thở
phào. Kèm theo một ít đau xót. Có một giáo sư
Đại học y khoa trong kia viết trên báo, ông không muốn các đồng nghiệp của mình rơi vào cái cảnh ở miền Bắc. Là cái cảnh, trình
độ bác sĩ chỉ bằng trình độ y sĩ.
2/5
Người
ta vẫn bảo phản ứng của người Hà Nội lâu nay là dè dặt, đến vui cũng lặng lẽ.
Chúng ta sống trong một xã hội khép kín... Có thể là như thế nhưng hôm nay thì
khác. Chưa bao giờ, có cảm tưởng vui như thế này.
Sáng 30/4, đã nghe có tin đồn Dương Văn
Minh đầu hàng.
9 giờ sáng, Cục tuyên huấn -- cấp trên của
chúng tôi nói: chính thức đầu hàng rồi.
Mở đài Sài Gòn. Chưa bao giờ được nghe đài
Sài Gòn công khai như vậy. Giọng Dương Văn Minh chậm rãi, cố giữ vẻ bình thản.
Người giới thiệu của đài cũng nói bằng một giọng trang trọng, nghiêm túc.
Lập tức có nhiều tiếng cười đùa réo lên.
Nghe xa xa đã có tiếng pháo nổ, đâu ngoài đường phía vườn hoa Hàng Đậu.
Bia, ngồi tán phét. Nguyễn Minh Châu bảo lúc
này lại nhớ khi anh nọ đùn anh kia đi B, mà sao cứ lần chà lần chân, nói chẳng
nên lời.
Nhiều người khác tán chuyện trong cơn say
thực sự, và cái say của tình cảm.
Tôi phóng xe ra đường, khi nghĩ tới bạn bè.
Ngỡ đường phố chưa ai biết gì, lại nhớ cái cảm giác những ngày hoà bình 1973,
muốn kêu lên mọi chuyện. Nhưng tôi đã nhầm,
chỉ cần ghé vào một hàng nước thôi, đã nghe đủ chuyện.
Người ta bảo hôm qua một hợp tác xã thủ công phải thức suốt đêm để may một lá cờ đỏ sao vàng 25m2.
Hôm nay, cờ được mang đi rồi.
Người ta bảo hôm qua một hợp tác xã thủ công phải thức suốt đêm để may một lá cờ đỏ sao vàng 25m2.
Hôm nay, cờ được mang đi rồi.
Ngồi uống nước, một ông già còn kể chuyện
Nam Bộ, một ông khác nói về Thái Lan, Cămpuchia: phen này, mình cứ đứng đây,
cho nó bò quanh mình.
... 5 giờ chiều, rất may mắn đi ra đường,
tôi được chứng kiến cảnh báo tin đầu tiên: “ Mời đồng bào và chiến sĩ cả nước
nghe tin chiến thắng.”
Người ứ lại trên ngã tư Tràng Tiền. Các
phóng viên nước ngoài, đã chực sẵn từ bao giờ, quay phim chụp hình rất nhanh.
Tôi nhớ nhất cái cảnh một người Việt Nam đang gân cổ nói trước một máy thu
thanh của một người nước ngoài. Một gã giáo viên giáo điều nào đó, nói sặc mùi
chính trị, trông xa đã ngượng hộ hắn. Hắn nói rai nhanh nhách đến nỗi người
phóng viên nước ngoài phải lợi dụng một nhịp hắn tạm nghỉ, để cắt lời hắn.
Nhưng thôi, hôm nay ngày vui, hãy để đấy
đã.
Người đã đông thêm chung quanh Bờ Hồ. Tôi
chợt nhận ra một nét thuộc về cách sống của người Hà Nội hôm nay: Người ta
thích đổ ra đường, chia sẻ niềm vui với nhau. Dù trong bóng tối chiến tranh, người
ta đã quen nhìn nhau mà sống.
Công tác tổ chức tồi quá. Giá kể có bắt
người ta đi mít tinh, thì như tôi thấy đây, trông rất lèo tèo, chưa ai nói gì
ra hồn. Nhưng cái cảnh người lũ lượt đi trên đường, đã chẳng phải là một thứ
mít tinh rồi sao?
Tôi còn thấy một Hà Nội tấp nập như vậy,
suốt đêm 30/4 lẫn sáng 1/5. Một ngày hai ý nghĩa, hai niềm vui.
Những đám người xếp hàng mua báo, một nét mới của Hà Nội.
Mấy lần, tôi bắt gặp một cụ già đứng chờ bên này đường, cho một đứa
cháu nội cháu ngoại gì đấy sang bên kia đường xếp hàng mua báo. Có thể cụ không
biết chữ nhưng cụ mua về cho con cái đọc.
Những đứa trẻ xem báo thì đứng ngay ở bên
những cái hố phòng không cũ -- mà tôi vốn rất quen thuộc và còn nhớ tỉ mỉ ngày lấp
đi, để đón hoà bình, tết năm 1973. Bây giờ, thì chắc chắn, có thể yên lòng với
những cái hố ấy rồi.
Chung quanh Bờ Hồ, ngày 1-5, còn có nhiều
đám mít tinh lẻ tẻ khác. Tôi đồ rằng phản ứng của giới lãnh đạo Hà Nội chưa kịp,
cho nên hãy để cho quần chúng tự nguyện làm theo kiểu tự phát cái đã.
Một người đàn ông đứng tuổi, ra dáng dân Hà
Nội gốc, đi trong đoàn người, mà lại ngước nhìn đi đâu. Tôi đoán ông ta đang
nghĩ tới một người cùng phố vào Sài Gòn từ cuối 1954.