Lời dẫn
Trước
1991, một số nhà văn VN đã đến thăm Hội
nhà văn các nước Cộng hòa vùng Ban tích thuộc Liên xô cũ, như Litva, Latvia,
Estonia.
Có một
chi tiết thuộc loại cơ cấu thành viên các Hội đó mà
anh Vũ Đình Bình có kể với tôi: ở cả ba ,
số nhà văn dịch giả đông hơn số nhà văn làm thơ viết truyện .
Tôi đọc
được ở đây mấy ý tưởng chính:
-- Nay là
lúc sự trao đổi văn hóa đã rộng mở, các sáng tác dịch từ những nền văn học
lớn viết bằng tiếng Anh tiếng Pháp tiếng
Nga… trên nét lớn có thể đáp ứng các nhu
cầu trong nước nhỏ hơn.
--Trong
điều kiện một nước nhỏ, sự phát triển
sáng tác là khó khăn, dịch thuật cần được coi là nhân tố gợi ý, thúc đẩy, giúp
cho các ngòi bút non trẻ có chỗ học hỏi.
-- Người ta không cố thổi những ngòi bút mới chập chững lên thành những nhà văn bất thành nhân dạng, không đạt được những chuẩn mực quốc tế.
Tình hình này có vẻ tương phản hoàn toàn với
cách nhìn nhận ở một số nước mới giành độc lập như VN sau 1945.
Ở nền văn học miền Bắc, nơi bọn tôi đã sống và
làm việc hơn nửa thế kỷ nay, việc dịch văn học bị coi là chuyện thêm thắt, gặp
đâu hay đó, không có sơ kết tổng kết gì cả. Việc đào tạo người nghiên cứu văn
học nước ngoài và người dịch bị bỏ mặc cho ngẫu nhiên. Chất lượng các bản dịch
trồi sụt hay dở không ai có thể kiểm soát nổi.
Trong thực tế, chủ trương “ dịch là văn học
hạng hai” vừa nói có bị biến dạng ít nhiều.
Trong
khi chờ đợi bộ phận nhà văn công nông trưởng thành, thì việc chủ trì nền văn
học đặt trong tay những người từng là những nhân vật hàng đầu trong văn học cũ như Xuân Diệu, Chế Lan Viên Nguyễn
Tuân, … hoặc các nhà văn đã có học hỏi ở các nhà trường Pháp thuộc như Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng.
Hoạt động dịch thuật do đó vẫn âm thầm đi theo cái mạch đáng ra phải có của nó.
Hoạt động dịch thuật do đó vẫn âm thầm đi theo cái mạch đáng ra phải có của nó.
Trong
thực tế, nhìn vào đời sống văn học ở mọi hoạt động hàng ngày của nó, chúng ta
vẫn có thể nhận ra những cố gắng nhằm đưa văn học dịch đóng
vai trò mà ở nhiều nước có hoàn cảnh tương tự như ta nó vẫn đảm nhiệm.
Không chỉ là món ăn tinh thần quý giá mà trong nước không có, nó còn có thể là những điểm tựa giúp người sáng tác vượt qua những bế tắc để tìm cho mình những quan niệm mới về văn học, từ đó gợi ý cho sự sáng tác của họ và các đồng nghiệp trẻ hơn.
Không chỉ là món ăn tinh thần quý giá mà trong nước không có, nó còn có thể là những điểm tựa giúp người sáng tác vượt qua những bế tắc để tìm cho mình những quan niệm mới về văn học, từ đó gợi ý cho sự sáng tác của họ và các đồng nghiệp trẻ hơn.
Tôi đã
thử theo dõi việc này khi nhìn lại quá trình Nguyễn Tuân đưa văn học Nga vào VN ngay trong mấy năm bản lề 1956-57.
Theo tôi hiểu, trong cái mông lung của văn học mấy năm 1955-57, Nguyễn Tuân và các đồng nghiệp của ông đã cố gắng dùng những tác giả Nga thế kỷ XIX như Tchekhov để góp phần tạo nên một định hướng khác đi so với sự hướng dẫn chính thống.
Theo tôi hiểu, trong cái mông lung của văn học mấy năm 1955-57, Nguyễn Tuân và các đồng nghiệp của ông đã cố gắng dùng những tác giả Nga thế kỷ XIX như Tchekhov để góp phần tạo nên một định hướng khác đi so với sự hướng dẫn chính thống.
Việc
làm của các ông có thể coi là thất bại với nghĩa, sau đó, Tchekhov bị thành kiến và mãi tới đầu những
năm từ 1980 trở đi mới có mặt lại.
Song thực tế nó vẫn có tác động tới những người lúc đó mới vào nghề như bọn tôi cả về mặt viết lách cụ thể lẫn trong việc xã định phương hướng lớn của đời mình.
Song thực tế nó vẫn có tác động tới những người lúc đó mới vào nghề như bọn tôi cả về mặt viết lách cụ thể lẫn trong việc xã định phương hướng lớn của đời mình.
Một
phương diện khác đáng được xem chúng ta
lại hiểu thêm tâm huyết của các ông, phần cựa quậy của các ông trong suốt giai
đoạn cầm bút sau 1945.
Là
người đã được đọc tập sách mà Nguyễn Tuân coi là một tác phẩm của mình từ khi
nó mới ra đời, tôi đã cố gắng để đưa Truyện
ngắn Sê - khốp (hồi ấy nó được viết như thế) lại thành một đầu sách mà tôi là
một biên tập viên vào năm 2004, kèm theo lời giới thiệu dưới đây.
Tác động
không được là bao, hiện mảng dịch thuật của
những bậc thầy như Nguyễn Tuân và Xuân Diệu chưa bao giờ được nghiên cứu
mà tác động của sách dịch với mỗi giai đoạn văn học ở Hà Nội cũng không mấy khi
được xem xét.
Tuy nhiên tôi vẫn coi đây là một hướng nghiên cứu cần tiếp tục.
Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được xã hội mình nếu không nghiên cứu mối quan hệ của
ta với tất cả các nước xa gần. Nói hẹp lại, việc tìm
hiểu mối quan hệ một nhà văn với văn học nước ngoài cũng là một trong những
cách thức tối ư cần thiết để đánh giá
đúng nhà văn đó.
Khi
chuẩn bị đưa lại bài viết này tôi rất tiếc là không có hai tập sách được nói tớí
trong tay, để chụp lại tấm ảnh bìa của chúng. Xin bạn đọc hiểu cho những hạn chế của tôi.
Bản dịch truyện ngắn
Tchekhov 1957
và một giai đoạn tiếp nhận văn học nước ngoài ở Hà Nội
và một giai đoạn tiếp nhận văn học nước ngoài ở Hà Nội
Thời trung đại, các cụ
ta hồi xưa sáng tác chủ yếu bằng chữ Hán và việc đọc sách chữ Hán cũng
tự nhiên như cơm ăn nước uống hàng ngày, nên trừ một vài trường hợp hiếm hoi,
loại như Tỳ bà hành của Bạch Cư
Dị, còn nói chung trong văn học Việt Nam
lúc đó không tồn tại khái niệm tác phẩm dịch.
Bước sang đầu thế kỷ XX, mặc dù hướng vào việc xây dựng một nền văn học theo
mẫu hình phương Tây, các nhà tiên phong
cũng chỉ bắt tay dịch một thời gian để
giúp vào việc dạy, học, và ổn định chữ quốc ngữ; tiếp đó sáng tác càng phát
triển thì dịch thuật càng thưa thớt, thường chỉ được làm một cách ngẫu nhiên,
rồi xuất hiện lót đót đây đó.
Trong hoàn cảnh Đông Dương là một xứ
được nước Pháp bảo hộ, học sinh
học bằng tiếng Pháp ngay từ bậc
tiểu học, công việc dịch văn chương gần
như là không được đặt ra bởi không thành một nhu cầu cấp thiết.
Thỉnh thoảng người ta cũng thử dịch chơi một chút, chẳng hạn, vào khoảng 1940-42, trên báo Ngày nay, Thế Lữ, Thạch Lam, Khái Hưng chia nhau dịch một ít truyện ngắn của những Daudet, Maugham, Pirandello … sau làm thành hai tập Hương xa và Hoa lạ, hoặc Lan Khai dịch Bức thư của người không quen của S.Zweig vv…
Thỉnh thoảng người ta cũng thử dịch chơi một chút, chẳng hạn, vào khoảng 1940-42, trên báo Ngày nay, Thế Lữ, Thạch Lam, Khái Hưng chia nhau dịch một ít truyện ngắn của những Daudet, Maugham, Pirandello … sau làm thành hai tập Hương xa và Hoa lạ, hoặc Lan Khai dịch Bức thư của người không quen của S.Zweig vv…
Dịch thuật chỉ được khởi động mạnh mẽ từ
sau 1945 mà lực lượng tham gia đầu tiên chính là chính
những người viết văn.
Ngay từ hồi ở Việt Bắc, Hội Văn Nghệ Việt Nam đã
có tiểu ban dịch thuật. Trên tạp chí Văn nghệ, Tố Hữu dịch Hành khúc
của Aragon, Đợi anh về của Simonov, Phan Khôi dịch Chúc phước
của Lỗ Tấn. Được in ra thành sách, còn
có Vũ Ngọc Phan với Misa cua Polevoi, Ngô Tất Tố với Suối thép
của Serafimovich, Trời hửng của Vương Lực, Phan Khôi với Thù
làng của Mã Phong, Hoàng Trung
Thông với Sáu bài thơ Maiakovski (tất
cả đều đã được ghi vào anh mục sách của Nhà xuất bản chuyên in thơ truyện hồi
kháng chiến chống Pháp, là nhà Văn nghệ ).
Đặt trong cái mạch nói trên, thì tập Truyện ngắn tuyển tập (Tchekhov
lúc đó còn viết là Sê—khốp) là một sự nối tiếp tự nhiên.
Nhìn vào danh sách người dịch, chúng ta
bắt gặp ở đây, những tên tuổi như Nguyễn Thành Long,Trần Dần, Thuỵ An, Phạm Hổ,
Nguyễn Văn Sĩ.
Nhất là chúng ta bắt gặp một trong những tên
tuổi hàng đầu của văn học Việt Nam
thế kỷ XX là Nguyễn Tuân.
Ai cũng biết sinh thời, Nguyễn Tuân là
một người đọc nhiều và đặc biệt thích những tác giả lớn.
Trong các bài viết đây đó, người ta thấy ông nhắc tới từ Andersen, Gogol, L.Tolstoi, Dostoievski tới Reoger Martin du Gard, B. Brecht, từ Charle Chaplin, Eisenstein tới Rener Clair, Pablo Picasso.
Trong các bài viết đây đó, người ta thấy ông nhắc tới từ Andersen, Gogol, L.Tolstoi, Dostoievski tới Reoger Martin du Gard, B. Brecht, từ Charle Chaplin, Eisenstein tới Rener Clair, Pablo Picasso.
Cả những tác phẩm cổ điển lâu đời lẫn những của hiếm của độc riêng
có trong thế kỷ XX, không gì tốt đẹp của nhân loại xa lạ với ông Nguyễn.
Tuy nhiên trên giấy trắng mực đen, tức là
xét tổng số chữ nghĩa Nguyễn Tuân đã dành cho một nhà văn nước ngoài và cái phần cốt cách người đó hằn lên trong tâm trí ông, để lại ảnh hưởng, tồn tại như một sự kiện của cuộc đời ông, thì phải kể Tchekhov.
Vào thời điểm cuốn Truyện ngắn này ra đời, trong giới xuất bản ở Việt Nam
chưa có ý niệm về người biên soạn. Và tôi cũng chưa từng được nghe ai kể là
cuốn sách đã hình thành như thế nào.
Nhưng tôi
ngờ chính Nguyễn Tuân là người đầu têu cho công việc,
tức là người “gà “ cho nhà xuất bản làm tập truyện và đứng ra bao thầu cho sự hình thành cuốn
sách về mặt nội dung.
Bảo
ông A. dịch truyện này, ông B dịch
truyện nọ.
Tự
tay dịch một số.
Rồi ghép lại thành tập.
Rồi lo
chạy Sĩ Ngọc vẽ cho cái ca-ri-ca-tuya hình tác giả làm phụ bản.
Và
không cần nhiều tưởng tượng lắm cũng đoán được là khi tập sách in xong,
ông cũng hoan hỉ nhìn nhận nó như một đứa con tinh thần của mình.
Trước mắt tôi là bản in lần thứ nhất cuốn sách mà Nguyễn Tuân đã ký tặng Nguyễn Khải vào ngày 31-X-1957 (về sau ông Khải đã cho tôi và tôi giữ đến ngày hôm nay mang ra tái bản).
Trước mắt tôi là bản in lần thứ nhất cuốn sách mà Nguyễn Tuân đã ký tặng Nguyễn Khải vào ngày 31-X-1957 (về sau ông Khải đã cho tôi và tôi giữ đến ngày hôm nay mang ra tái bản).
Nguyễn Tuân vốn xem nghề văn là cái nghiệp
thiêng liêng và không bao giờ cẩu thả
trong giao thiệp. Việc nhà văn năm đó
tuy mới 47 tuổi nhưng đã rất già
dặn trong nghề mang tặng một người bạn trẻ (năm ấy Nguyễn Khải mới 27) một cuốn
sách mình chỉ dịch một phần --, bản thân
nó, cũng đã nói lên một phần những tâm huyết mà Nguyễn Tuân đặt vào trang sách.
Tuy không ai tuyên bố chính
thức, nhưng xem cái cách đối xử với
người dịch và sách dịch ở ta hiện nay thì có thể tóm tắt đại khái với nhiều
người, dịch sách là một công việc không mấy nặng ký. Muốn có ý nghĩa sáng tạo, phải là đi làm thơ viết văn. Chứ dịch ấy ư ? Chẳng qua bất tài không sáng tác được mà lại có may mắn được học một ít ngoại ngữ
nên anh mới đi làm thứ công việc hạng hai đó.
Dịch
không phải là chỗ để người ta có thể lên tiếng đóng góp với đời.
Dịch không thể tạo ra một tên tuổi.
Ấy
đại khái người ta cứ nguýt dài mà chê bai như vậy.
Có
biết đâu ở những tài năng đồng thời lại
là những người có vốn học như Xuân Diệu Nguyễn Tuân thì việc dịch được quan niệm khác hẳn.
Trong
một chừng mực nào đó, có thể nói Xuân Diệu đã mang lại cho người yêu thơ Việt
Nam một cách hiểu khác đi về thơ, khi dịch N. Hikmet, B.Dmitrova, một Xuân Diệu như vậy cũng tự hào coi những trang thơ
dịch như chính sáng tác của mình.
Riêng với Nguyễn Tuân, phải nói bản dịch
Tchekhov lần này chính là một hành động văn học với nghĩa đầy đủ của từ này.
Cái sự dụng công mà ông Nguyễn đặt vào
bản dịch bao gồm nhiều việc, kể cả cái
việc tưởng như rất nhỏ là cách gọi tên nhân vật.
Ai
người đã đọc sách dịch từ trước 1945 đều
biết rằng có một hồi, muốn cho nhân vật
trong các truyện phương Tây quen với hoàn cảnh Việt Nam, người dịch có một lối đặt tên lại.
Manon Lescaut được đổi là Mai Nương Lệ Cốt,
Turcaret được gọi làTục ca lệ,
Roméo Juiliette được gọi là Lộ Miêu
Duy Liên hoặc Lộ Minh Duy Lan.
Nguyễn Tuân đã làm như vậy, ông đưa vào
đây thày quản cu-lít Phát, lão quản Bi, chị Na.
Đọc
truyện ông dịch, người ta thấy anh đánh
xe ngựa Doan đánh xe xuống phố Vi, hoặc lão Binh-bô-rông thuê xe tới hiệu Diêm
Ký.
Tôi xin
miễn không bình luận rằng cách làm như thế này là hay hay dở, riêng cái việc
ngày nay nó bị xã hội từ chối không được
tiếp tục làm theo, đã là một kết luận dứt khoát không ai cãi lại nổi. Nhưng cho
phép tôi nói một kỷ niệm nhỏ. Một câu
đùa xoay quanh chuyện một cô
gái sống với cái ám ảnh của mấy thanh âm nó làm thay đổi cả cách cư xử của cô và biết đâu cả cuộc đời cô. Câu nói đóng vai
trò một cái chốt đó trở đi trở lại đến năm lần trong thiên
truyện chưa đầy hai ngàn chữ tiếng Việt.
Nó đơn giản chỉ là thế này :
Nó đơn giản chỉ là thế này :
-- Na ơi, anh yêu em !
Không rõ người khác đọc truyện thế nào, phần
tôi, từ lúc đọc thiên truyện đó lần đầu hơn bốn chục năm về trước đến ngày hôm
nay, cái câu năm tiếng gọn lỏn đó nó đã
hằn vào trí nhớ.
Truyện Một câu đùa trở thành truyện
Na ơi, anh yêu em.
Và không biết tôi có phạm tội thậm xưng, tội nói lấy được (?), song
nhiều lúc nghĩ vân vi cứ có cảm
tưởng năm tiếng kia sẽ không khắc sâu
vào tâm trí tôi đến thế, nếu nó không được Việt hoá, tức còn giữ nguyên cái tên
nhân vật như trong tiếng Nga (Nadia, anh yêu em ).
Đối với trường hợp của lão quản Prisybiev mà ông Nguyễn gọi tóm lại
là quản Bi, người ta cũng có thể nói về hiệu quả tương tự.
Việc đặt cho nhân vật những cái tên Việt
Nam, chỉ là dấu hiệu dễ thấy của một cố gắng lớn lao hơn, mà cũng khó thực hiện hơn là việc Việt hoá toàn bộ
thiên truyện, làm cho nó trở thành như là do một nhà văn bậc thày Việt Nam
viết ra vậy.
Gần đây đã có người cho rằng cả tập Truyện
ngắn Tchekhov in năm
1957 không giữ được chất Nga trong nguyên
bản.
Tôi cũng cho cái nhận xét đó có thể là có
lý song lại nghĩ điều đó không sao cả,
ai có nhu cầu đọc các bản
dịch Tchekhov dịch thẳng từ tiếng Nga cứ
đọc, và chính tôi nữa, khi muốn tìm hiểu chất Nga của Tchekhov, tôi cũng sẽ
tìm.
Còn
như những khi muốn thưởng thức Tchekhov, muốn coi Tchekhov như một nhà văn, qua
trang sách tâm sự chuyện trò với mình
trò chuyện bảo ban mình về cách sống cách nghĩ, tôi xin được phép cứ tìm
đọc và muốn mọi người cùng đọc Tchekhov
qua ngòi bút của những Nguyễn Tuân, Trần
Dần, Phạm Hổ, Nguyễn Thành Long... mà chúng ta đang bàn.
Cũng xin nói ngay là cái cách hiểu về
dịch phẩm của tôi ở đây không phải lập
dị trái khoáy gì mà ở nhiều nước, người ta cũng có quan niệm tương tự. Trong
một tài liệu giới thiệu về khoa phiên dịch nói chung (1), một nhà nghiên
cứu là Nguyễn Nam
cho biết: phiên dịch hiện nay không còn bị bắt chết vào một nghĩa cụ thể.
Sự trung thành với nguyên bản không còn là giáo điều duy nhất buộc phải chấp nhận. Mà
nay nó được xem như một quá trình xử lý văn bản với nhiều nghĩa khác nhau.
Đi xa nhất trong việc này là nhà nghiên cứu André Lefevre, ông bảo hành động dịch thuật có thể được hiểu như một thứ tái
trứ tác (rewritings ), nói nôm na là viết lại, viết một lần nữa, cách này vẫn được các bậc thày trong văn học ưa sử dụng để cải biên cái ngoại lai, cho nó phù
hợp với thuỷ thổ của nền văn học mà bản
dịch đi tới.
Nghe những quan niệm ấy thấy nó rất ứng với cái cách mà Nguyễn Tuân đã quan niệm khi dịch.
Đọc những trang Tchekhov hoá thân vào văn
phong của tác giả Vang bóng một thời, người ta bắt gặp những con người
cứ y như là người Việt mình, họ chuyện
trò quan hệ với nhau, bẻ hành bẻ tỏi nhau, rồi lại sùi sụt thề thốt với nhau
trên nền cái khung cảnh cũng là ở một làng quê phố huyện Bắc bộ nào đó.
Cái đó không phải là một cái tội !
Không phải Nguyễn Tuân đớn gì trong việc chuyển
ngữ, cũng như trong việc tạo không khí cho dịch phẩm mà mình muốn giới thiệu với bạn đọc.
Ngược lại, phải yêu quý dịch phẩm lắm, xem nó
như chính tác phẩm của mình, một nhà văn – ở đây là một tên tuổi như Nguyễn
Tuân -- mới mạnh tay mà làm vậy.
Người ta đã nhận xét rằng khi hoạ chân dung
người khác, Nguyễn Tuân đồng thời làm một cuộc trình bày chân dung chính mình.
Tôi
cho rằng trong cái sự cầm bút ngồi dịch,
Nguyễn Tuân cũng vậy. Ông thấy đây là
một công việc thiêng liêng. Ông không chỉ chuyển nghĩa cứng nhắc như người dịch vẫn làm, mà có thể nói đã sinh
đẻ lại tác phẩm, từ đó tạo ra cho các thiên truyện một giọng điệu riêng, một
thứ Tchekhov của riêng ông.
Dịch
là một cách để ông viết những điều ông hằng nghĩ.
Đã say trong việc dịch, Nguyễn
Tuân lại còn để rất nhiều tâm huyết vào bài giới thiệu Tchekhov đặt ở đầu sách. Trừ bài Thời và
thơ Tú Xương viết về sau, in trong tập Chuyện nghề, chưa bao giờ cây
bút phê bình nghiên cứu ở Nguyễn Tuân ra vai một cách đàng hoàng như vậy. Ông
ngược lên tiểu sử nhà văn. Ông duyệt lại các tác phẩm Tchekhov, kể cả những vở
kịch mà lúc đó hầu như chưa ai biết gì. Ông dẫn lại điệp trùng những đoạn
Gorki, Elsa Triolet ca tụng người đồng
hương vĩ đại của mình (Elsa cũng gốc Nga).
Và nhất là ông liên hệ văn phẩm của Tchekhov với hoàn cảnh Việt Nam.
Với
thói quen hay sục sặc sinh sự, Nguyễn Tuân “bỏ nhỏ“ mấy câu ghi chú bên cạnh thiên truyện Con hoạt đầu :
Ở bản
dịch tiếng Pháp, tên truyện là Caméléon. Caméléon là một loài bò sát ; ở miền nam gọi tên nó là con kỳ
nhông. Kỳ nhông có đặc tính là thay đổi màu sắc để tự vệ mỗi khi cần phải thích nghi với hoàn cảnh
thiên nhiên. Con Caméléon nói ở đây là
một anh nịnh, nịnh trên nạt dưới. Người dịch tạm cho mình cái quyền
dịch tên truyện không theo nghĩa đen mà dịch theo nghĩa bóng. Thực ra trong
loài bốn chân không có con gì trong vạn
vật học, mang tên là con hoạt đầu. Có lẽ chỉ trong xã hội loài hai chân mới thấy có cái con này.
Nếu lại chú ý tới cái câu ghi chú Hà Nội cuối tháng bảy 1957, một ngày lụt cạn, một ngày hàn khẩu một con đê bên kia
sông (2), người ta phải nhận rằng ông đã viết mấy chục trang tiểu luận ấy theo kiểu một nhà
văn; những văn phẩm tưởng như xa lạ kia hoá ra có liên hệ ngay với đời sống trước
mắt, và cái ông nhà văn ở mãi tịt mù bên
Nga- la - tư kia, như một con người đang sống, được triệu về để chia sẻ nhiều điều tâm sự trước thời cuộc.
Muốn hiểu cho hết bài giới thiệu Tchekhov
mà Nguyễn Tuân đặt ở đầu sách, người ta
phải quay về với cái không khí của mấy năm sau hoà bình lập lại tức khoảng
1955-57, ở Hà Nội.
Từ kháng chiến trở lại thủ đô, đời sống xã
hội nói chung cũng như văn nghệ nói riêng mấy năm ấy đặt ra những vấn đề gay go rắc rối hơn bao giờ hết. Sáng tác trong nước không
chứa hết được những ngổn ngang vừa đến trong lòng người. Để có được những câu
giải đáp, một số cây bút đầy tâm huyết và có điều kiện đọc rộng quay ra tìm
ở văn học nước ngoài.
Đọc lại
một số nhà văn hàng đầu hồi ấy, người ta thấy rằng những tên tuổi
lớn của thế giới đã có mặt để đồng hành
với họ trong đời sống và sáng tác.
Trong nhật ký, Nguyễn Huy Tưởng không chỉ để
cho dòng suy nghĩ của mình nương tựa vào I. Ehrenburg, A. Tolstoi mà còn
nhắc tới H. Ibsen, A. Gide.
Trong tập Những bước đường tư tưởng
của tôi, Xuân Diệu đã dẫn lại từ A.
Musset, P. Verlain …đến Politzer, Howard Fast.
Chính lúc ấy, với tư cách một nhà văn
Nga được Gorki tôn sùng, Tchekhov được
người ta viện dẫn nhiều nhất.
Trong khi chúng ta quen nói về những gì hào
hùng cao đẹp thì Tchekhov nói về những chuyện mè nheo vô vị vủa cuộc đời.
Trong khi chúng ta quen nghĩ rằng cái gì
cũng có thể làm được thì Tchekhov nói nhiều đến sự bất lực.
Trong khi chúng ta quen bảo cái gì cái gì cũng rành rẽ, và tương lai
sẽ hiện ra xán lạn, thì Tchekhov bảo
rằng cuộc đời nhiều khi mờ mờ xam xám, không biết rồi nó còn
trôi giạt đến đâu.
Tóm
lại, Tchekhov có thể là bạn đồng hành của những ai, khi phải đối mặt
với cuộc đời đa đoan rắc rối trước mắt, mang một chút hoài nghi lành mạnh
chứ không chịu đi theo những khuôn khổ
có sẵn.
Tác
phẩm Tchekhov làm được những gì mà sách dịch của NXB Văn nghệ khoảng
54-56, như Anh thương binh về làng (Aleksei Tolsoi), Chiến sĩ và Tổ
quốc (Nguỵ Nguy), Tam lý loan (Triệu Thụ Lý ) … không thể làm nổi.
Lại
có cả những vấn đề lý luận đang nổi lên trong đời sống mà trong khi mầy mò tìm
kiếm người ta phải viện dẫn tới sáng tác của Tchekhov.
Trước và sau vụ Nhân văn Giai phẩm, các
nhà văn ở ta thường tranh cãi với nhau chung quanh trách nhiệm của các nhà văn trước thực tế.
Một cách ngẫu nhiên -- hoặc để dùng lại
một chữ mà Nguyễn Tuân hay dùng
-- theo sự thanh khí lẽ hằng,
Tchekhov có mặt.
Nhân bàn về Viết sự thật (sau này bài viét mang cái tên này còn in
vào tập Những bước đường tư tưởng của tôi)
Xuân Diệu có mấy câu lèo cả Tchekhov vào.
Theo Xuân Diệu có một loại nhà văn nói tất cả cái đau xót của xã hội, nói rất
thiên tài, nhưng rồi giẫm chân tại chỗ
không biết làm sao thoát ra được – mà Tchekhov
chính là tiêu biểu.
Và thế là “chạm nọc” ngay Nguyễn Tuân.
Ông Nguyễn thấy cần phải cãi lại Xuân
Diệu để chiêu tuyết cho Tchekhov. Ông tìm thấy ở Tchekhov cái thái độ cần
và đủ mà một nhà văn nên có trước đời sống.
Dù là sau này Nguyễn Tuân sẽ nghĩ khác đi,
nhưng đúng là vào khoảng thời gian 1956-57 này, với tác giả Vang bóng một
thời, Tchekhov là một thứ chân lý trăm phần trăm không có gì phải trừ bì.
Văn chương Tcheskhov vốn có gì mờ đục,
không thích hợp với những thời đại quá đơn giản, quá rực rỡ, thì trong hoàn
cảnh của mấy năm 1956 –1957, lại tỏ ra
khá thích hợp với xã hội Việt Nam và
nhất là thích hợp hơn cả với một người vừa rắc rối vừa thích rành mạch như ông
Nguyễn.
Trong lịch sử văn học thế giới, người ta không bao giờ
quên ghi danh hai người đồng hương vĩ
đại của Tchekhov là L.Tolstoi và F.
Dostoievksi. Bên cạnh cái phần khác nhau rõ rệt, giữa hai ông có một sự giống nhau là biết gợi ra những vấn đề trừu tượng bậc nhất của con
người. Nhưng chính vì tư tưởng của hai bậc văn hào quá lớn, nên người đời thường
nhìn hai ông theo lối “kính nhi viễn chi“.
Nếu không dối lòng, chúng ta phải nhận là
nhiều lúc đọc các ông thấy ngợp, xa lạ, hụt hẫng.
Tchekhov thì khác.
Sự sâu sắc ở ông thường được giấu kín
trong cái vẻ gần như tầm thường, chính vì vậy, khi phát hiện ra, chúng lại có cái sự hấp dẫn riêng.
Có thể hình dung Tchekhov như đi cùng
đường với chúng ta, nhìn thấy mọi thứ như chúng ta, nhưng bao giờ cũng đi xa
hơn một đoạn.
Đây là một số ví dụ :
Những người khác nói rằng con người đáng thương trong sự đau khổ. Còn với
Tchekhov, con người đáng thương ngay trong lúc họ hạnh phúc và đạt được mục
đích.
Nhân danh tinh thần dân chủ, một số nhà văn thích lý tưởng hoá những sinh linh bé nhỏ, bất hạnh.
Tchekhov thì khác. Ông để một nhân vật phát biểu: “ Những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo, nghiệt ngã, và ít khả năng hiểu người khác hơn cả những người đần độn “
Tchekhov thì khác. Ông để một nhân vật phát biểu: “ Những kẻ đang chịu đau khổ thường ích kỷ, ác độc, thiếu tỉnh táo, nghiệt ngã, và ít khả năng hiểu người khác hơn cả những người đần độn “
Một
nhận xét như vậy, nếu không phải là của một
tác giả cỡ như Tchekhov, chắc bị nhiều người cự tuyệt.
Sự vô nghĩa của cuộc sống được Tchekhov xem
như một tai hoạ.
Còn sự trống rỗng là cái mà Tchekhov sợ hơn
cả :
“Một cánh đồng cỏ khô chạy dài, đơn
điệu và hoang vu như sa mạc, chắc cũng
không làm cho người ta thấy tẻ nhạt, chán chường, như một người ngồi đó, nói
năng uể oải và không biết bao giờ mới
chịu bỏ đi.”
Trong thế giới của Tchekhov, ngay cả những
nhân vật thuộc loại tốt đẹp cũng không biết làm gì. Ngược lại, những con người thấp hèn bất hạnh đôi khi cũng biết nói lên
những điều hết sức sâu sắc.
Thế
giới dở dang vậy, nhưng theo cách trình bày của tác giả, dù đã trở thành chán
ngấy, nó vẫn đẹp biết bao, nó đáng cho chúng ta sống.
Thời gian qua đi, khoa nghiên cứu về
Tchekhov ngày càng có rất nhiều khám phá, những khám phá này có liên quan đến
kịch Tchekhov, và nhất là những tác phẩm ông viết khoảng mươi mười lăm năm cuối
đời, loại như Câu chuyện tẻ nhạt, Ngôi nhà có căn gác nhỏ, Huân chương hoàng
hậu Anna, Volodia lớn Voloddia bé …
Đứng ở góc độ này mà xét, phải nhận là
nhiều phương diện làm nên tài năng
Tchekhov chưa được bộc lộ trong
tập Truyên ngắn in ra 1957.
Hoàn cảnh lúc ấy chưa cho phép Nguyễn Tuân
và các đồng nghiệp làm nhiều.
Tuy nhiên, chỉ trong phạm vi của các truyện
ngắn đã in, Tchekhov cũng đủ trở nên thân thuộc với bạn đọc, nhất là với các
nhà văn Việt Nam .
Ngoài khá nhiều câu chuyện linh tinh về
các nhà văn đồng nghiệp đương thời, một
trong những chủ đề mà nhà văn Nguyễn Khải thường nói với tôi vào khoảng những năm 1968-75 (khi chúng tôi
cùng công tác ở tạp chí Văn nghệ quân đội) là những tác giả tác phẩm của văn học Pháp và
Nga mà Nguyễn Khải vừa đọc
và từng gợi ý cho ông trong sự
sáng tác. Ông kể với tôi về những bài
báo Satre in trong các tập Situation (Nhận định). Về những cuốn carnet
(sổ tay) của Camus. Về ông Thượng
đế “cái gì cũng biết“ Tolstoi, về thiên
tài tàn ác Dostoievski.
Mặc dù
bấy giờ chung quanh là một không khí thời chiến đặc quánh, nhưng công việc của
đám người viết bao giờ cũng thế,
phải lùi ra xa mà nghĩ, lùi ra xa để thấy những vấn đề chung của đời sống nó
bao trùm lên cuộc sống con người, bất kể
là chiến tranh hay hoà bình.
Bởi vậy chúng tôi mới có
lúc nhẩn nha nói những chuyện đâu đâu
như vậy. Chính là trong không khí tuỳ
nghi đó mà một lần Nguyễn Khải ngồi giảng
cho tôi về một truyện ngắn của Tchekhov :
-- Đọc lại thấy Tu sĩ áo đen cũng ghê.
Này, có ngu thì mới bảo là trong đó Tchekhov lên án thói vĩ cuồng, hoặc nói nôm
na là cái bệnh háo danh tầm thường. Không, chủ đề của Tchekhov ở đây sâu sắc
hơn nhiều. Ông muốn bảo với người ta rằng chính là nhờ có ảo tưởng mà sức lực
con người ta lại được giải phóng
Tương tự như trong mẩu chuyện trên đây về
Nguyễn Khải, Tchekhov còn nhiều phen có
dịp đi về trong những câu chuyện hàng
ngày của những nhà văn nhà báo mà tôi có
quen : Nguyễn Thành Long, Trần Đĩnh, Huy Phương, Nguyễn Kiên... Hoặc như với Nguyễn Minh Châu, bên cạnh Lỗ Tấn, thì
nhà văn nước ngoài mà ông Châu chịu hơn cả,
cũng là Tchekhov.
Thuở ban đầu, điều làm
chúng tôi thú vị là mấy tính cách
nhân vật loại như Con hoạt đầu, Quản Bi. Rồi chúng tôi thích cái lãng
mạn bàng bạc trong cuộc sống kiểu như Một câu đùa và mãi về sau mới dừng lại lâu hơn ở
những Người trong bao (bản dịch 1957 cải là Người mang vỏ ốc ),
hoặc Phòng số 6 (bản dịch của
Nguyễn Văn Sỹ in nhiều kỳ trên báo Văn ).
Khi đã
vào sâu hơn trong nghề, biết những cái khó cái dễ của việc cầm bút, chúng tôi
lại sẽ thích nói với nhau về những bài học nghệ thuật ở nhà văn này, chẳng
hạn một trong những bí mật, nó là một
trong những đặc sắc lỳ lạ của văn xuôi Tchekhov, là cái cách mà một nhà văn
tham dự vào câu chuyện được kể.
Vượt lên trên những thiên truyện cụ thể,
còn phải nói tới một điểm nữa là số phận của chính Tchekhov ở Việt Nam, những
giận dỗi thất thường mà ông phải chịu, nó
cũng là một khía cạnh độc đáo liên quan tới quá trình Tchekhov thâm nhập vào đời
sống văn học VN thời bọn tôi mới bước vào nghề.
Nguyên
là, theo thông lệ của việc làm sách dịch ở Hà Nội, các tác giả cổ điển thường không bị đặt trong
thế cần cảnh giác, tức là họ dễ được “ xài ‘ hơn tác giả hiện đại.
Thế nhưng thử nhìn vào bảng kê các tác giả
văn học cổ điển Nga thế kỷ XIX, người ta vẫn không thể cãi lại một sự thực là
trong khi L.Tolstoi được ưu tiên hàng đầu thì
F. Dostoievski bị ghẻ lạnh, Chiến tranh và hoà bình được in ra từ
1960, còn Tội ác và trừng phạt thì, không kể bản in ở Sài Gòn, mãi tới 1983,
bản dịch của Cao Xuân Hạo mới được phát hành rộng rãi.
Trước đó, Dostoievski bị coi là có những
tư tưởng không hợp thời, và không đáng được
giới thiệu. (3)
Tchekhov
mà chúng ta đang nói cũng là một trường hợp tiêu biểu cho sự nóng lạnh
trong lối tiếp nhận lúc này, dù là nóng lạnh đỏng đảnh theo một cách khác.
Những việc mà Nguyễn Tuân và nhóm dịch giả đã làm cho Tchekhov như vậy là quá nhiều, gần như không ai trong số các nhà văn nước ngoài có được may mắn tương tự.
Những việc mà Nguyễn Tuân và nhóm dịch giả đã làm cho Tchekhov như vậy là quá nhiều, gần như không ai trong số các nhà văn nước ngoài có được may mắn tương tự.
Nhưng chính đó lại là cái cách diệu nhất khiến
cho Tchekhov bị đánh dấu, nói nôm na là bị coi cùng một duộc với những người đã
đứng ra dịch.
Cả
một khoảng trắng còn đó: Từ sau tập Truyện ngắn này, một thời gian dài,
Tchekhov vắng bóng trên các giá sách ở Hà Nội.
Không kể tập kịch Tchekhov in ra năm 1961,
thì phải hai mươi năm sau, tới 1978, một
tập truyện ngắn của ông (in làm hai cuốn) mới lại được giới thiệu với
công chúng. Nếu các bản dịch trước đây
thông qua tiếng Pháp hoặc tiếng
Anh, thì về sau, đó là các bản dịch từ
tiếng Nga.
Nhiều người nhấn mạnh tới sự chính xác
của các văn bản để giải thích sự chậm trẽ.
Song theo tôi hiểu, lý do chính ở đây là sự ngần ngại. Bản thân cái
việc có mặt vào năm cái 1957 nhốn nháo đã làm cho Tchekhov mất đi vẻ trung tính
bình thường của một nhà văn cổ điển để nhận lấy cách tồn tại trong thầm lặng.
Không chỉ không được làm sách mà suốt
những năm sáu mươi và gần hết những năm bảy mươi, Tchekhov còn không được dịch in trên báo, không được
nghiên cứu và rất ít khi được các tài liệu chính thức trích dẫn.
Xét trên một phương diện nào đó thì những
hạn chế trong việc xuất bản ấy có làm
cho Tchekhov khó đến với bạn đọc. Song trong thực tế, nó lại tạo nên một sức
thu hút. Người ta, nhất là các nhà văn, truyền tay nhau những bản thảo cũ. Và
nhất là như trên đã dẫn, người ta hay bàn về Tchekhov qua các câu chuyện nghê lỏm. Các tác phẩm của ông
được tiêu hoá lặng lẽ hơn kỹ lưỡng hơn.
Ở một đoạn khác, trong bài viết về phiên
dịch học ở trên đã dẫn, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam còn nhắc tới một nhận xét của nhà nghiên cứu Susan Bassnet, nó cũng là một
khái quát quan trọng cần chú ý khi
nghiên cứu các dịch phẩm :
“ …quá
trình phiên dịch văn bản từ một hệ thống văn hoá này sang một hệ thống văn hoá
khác không phải là một hoạt động trung
tính đơn thuần và hiển minh (..) Phiên dịch đã đóng một vai trò cơ bản trong
chuyển biến văn hoá và khi chúng ta khảo sát quá trình lịch đại
của thực tiễn phiên dịch, chúng ta có thể biết được rất nhiều về vị thế của các
nền văn hoá tiếp nhận trong quan hệ với
các nền văn hoá của văn bản nguyên thuỷ “ (4)
Nói cho cụ thể, tức là khi một cuốn sách
của một tác giả Nga (hay Trung Hoa, Nhật Bản )được dịch ra tiếng Việt thì bản
dịch đó không chỉ thông báo với chúng ta
về xã hội Nga ( hay Trung Hoa, Nhật Bản), mà điều không kém phần quan trọng là
thông báo về chính xã hội Việt Nam.
Trường hợp tập truyện ngắn Tchekhov in
1957 là một minh hoạ xác đáng cho những nhận xét nói trên. Nó đã trở thành một
vật chứng cho cái giai đoạn văn học mà nó ra đời, và trong việc này, mặc dù chỉ có tư cách
một dịch phẩm, nó có phần vượt hẳn lên trên, so với các sáng tác xoàng
xĩnh, để đứng ngang hàng với những tác phẩm
quan trọng của các nhà văn trong một giai đoạn mang tính cách giao thời.
Mấy câu trữ tình ngoài đề
Lẽ thường, yêu ai đó thì cố tìm ra chỗ người đó gần gũi với mình. Tình yêu với Tchekhov cũng đã lôi cuốn một số nhà văn và nhà nghiên cứu vào cái công việc thú vị là so sánh ông với các tác gia ViệtNam . Có người bảo ông gần gũi với
Nguyễn Công Hoan. Lại có người thấy bóng
dáng của ông trong Nam Cao.
Lẽ thường, yêu ai đó thì cố tìm ra chỗ người đó gần gũi với mình. Tình yêu với Tchekhov cũng đã lôi cuốn một số nhà văn và nhà nghiên cứu vào cái công việc thú vị là so sánh ông với các tác gia Việt
Phần
tôi, tôi nghĩ cả hai trường hợp này đều
không phải.
Anh
béo và anh gầy, cũng như Cái chết của viên công chức, Cái mề đay,
Những giọt nước mắt đời không trông thấy …là những truyện rất hay và cũng là những truyện được nhiều
người đọc nữa, nhưng không thể thu hẹp
Tchekhov ở loại văn phong này, nên sự so sánh với Nguyễn Công Hoan là không có
cơ sở.
Còn như đọc Nam Cao, thấy có gì gắt quá ráo riết quá, người viết chăm chú vào ý nghĩ của mình đến mức không cho người đọc một chỗ nào thừa để suy nghĩ, nói chung văn Nam Cao thiếu sự lùi xa, thiếu cái khoảng khoát hồn nhiên có đượm một chút hư vô, nên giữa nhà văn này với Tchekhov là cả một độ chênh về cách nghĩ, họ như hai loại cây khác hẳn nhau, không thể so sánh.
Còn như đọc Nam Cao, thấy có gì gắt quá ráo riết quá, người viết chăm chú vào ý nghĩ của mình đến mức không cho người đọc một chỗ nào thừa để suy nghĩ, nói chung văn Nam Cao thiếu sự lùi xa, thiếu cái khoảng khoát hồn nhiên có đượm một chút hư vô, nên giữa nhà văn này với Tchekhov là cả một độ chênh về cách nghĩ, họ như hai loại cây khác hẳn nhau, không thể so sánh.
Vào những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX
và thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, trong hoàn cảnh một đất nước vừa ra
khỏi chiến tranh, cuộc sống chúng ta hôm
nay ồn ào tấp nập,con người lăng xăng đủ chuyện và thật lắm lời lắm lý
sự.
Ngược lại trong Tchekhov, con người muốn làm một việc gì đó, nhận ra có nhiều ý nghĩa trong việc sẽ làm, đã sắp sửa làm, rồi sau hết lại không làm.
Nhưng tận bề sâu, sao giữa hai bên vẫn có cái gì gần gũi.
Ngược lại trong Tchekhov, con người muốn làm một việc gì đó, nhận ra có nhiều ý nghĩa trong việc sẽ làm, đã sắp sửa làm, rồi sau hết lại không làm.
Nhưng tận bề sâu, sao giữa hai bên vẫn có cái gì gần gũi.
Nói
như nhà nghiên cứu N. Berkovski, thế
giới mà Tchekhov miêu tả là một cái gì đã sờn mòn. Một cuộc sống dang dở lờ mờ tốt lờ mờ
xấu tồn tại trong cái thế chờn vờn bảng
lảng như bóng ma Đạm Tiên “sen vàng
lững thững như gần như xa “. Thiên nhiên thì đẹp mà con người mệt mỏi, bất lực.
Hãy nhìn lại mình hãy ngẫm nghĩ
xem thực ra mọi người đã sống tồi
tàn tẻ nhạt đến như thế nào.Thật chua
chát mà nghĩ rằng làm sao có thể đê tiện như vậy mà xuống mồ.
Những ý nghĩ tương tự từ đâu đó thoáng
hiện rồi hằn lên rõ rệt trong tâm trí và
không sao dứt bỏ nổi.
Người mình
thường ngầm cảm thấy gần Tchekhov
ở những suy nghĩ kiểu đó chăng ?
Nếu nói về sự độ lượng trong thái độ đối
với con người, một cách nhìn tưởng như là dửng dưng mà lại đằm thắm trước đời
sống, thì trong số các nhà văn Việt Nam, tôi thường nghĩ nhiều tới Thạch Lam; ở phần sâu xa của cách
cảm cách nghĩ, Thạch Lam có những khía cạnh gần với Tchekhov..
Nhưng chỉ chút chút mà thôi.
Dẫu
sao, từ trước tới nay rất ít khi các tác giả nước ngoài được suy nghĩ
theo hướng mang ra so sánh với các nhà văn Việt Nam như thế này. Phải nhận đây là
một ngoại lệ thú vị. Chỉ riêng việc chúng ta phải nghĩ để nhận ra chúng ta khác
với các nhân vật của Tchekhov thế nào cũng đã có tác động thức tỉnh. Nói cho to
tát tức là Tchekhov đã trở thành một nhân tố kích thích quá trình tự nhận thức của xã hội Việt Nam .
Mà tất cả bắt đầu chính từ cuốn Truyện ngắn tuyển tập làm năm 1957 do
Nguyễn Tuân khởi xướng./.
(1) Nguyễn Nam Phiên dịch học và văn học so
sánh : một hướng tiếp cận văn học Việt Nam Tạp chí văn học,số 9, tháng
9-2001, tr. 61-72
(2) Tức vụ vỡ đê Mai Lâm
(3) Xem thêm Vương Trí Nhàn Một hồ sơ nhỏ
về Đốt, in trong Ngoài trời lại có trời, NXB Hội nhà văn, H 2003
(4) Nguyễn Nam, tlđd, tr. 63
Đã in trong Vương Trí Nhàn Phê bình
và tiểu luận, nxb Hội nhà văn 2009