Đến tận cùng đau đớn, đến tình yêu
(XQ-THƠ
TÌNH CHO BẠN TRẺ)
Khi
nghe ca sĩ Thúy Mị hát bài Đợi có lẽ
bạn nghe đài cũng như bạn đọc nói chung nhiều người không để ý rằng trong việc
phổ thơ Vũ Quần Phương, nhạc sĩ Huy Thục đã làm một việc đảo lộn nho nhỏ.
Nguyên văn câu thơ đầu tiên trong bài của Vũ Quần Phương Anh đứng trên cầu đợi em.
Bài thơ nói cái cảnh người đàn ông đợi người đàn bà.
Còn bản nhạc Đợi của Huy Thục thì diễn tả một tình thế ngược lại. Người phụ nữ tới trước và đợi người yêu của mình. Cả
bài ca là tiếng lòng tha thiết của "phái yếu" khi chủ động làm công việc chờ đợi đó.
Người
viết bài này chưa có dịp gặp Huy Thục để hỏi nhạc sĩ tại sao đổi như vậy. Nhưng
khách quan mà xét, thì việc đảo lộn ấy rất hợp với quy luật.
Không
hẹn mà nên, trong ca dao dân ca, trong
chèo, trong truyện cổ tích, khi cần diễn tả tình yêu, các tác giả vô danh và khuyết
danh Việt Nam có thói quen để cho phụ nữ đóng vai trò chủ động.
Họ thường yêu
sâu sắc hơn nam giới.
Họ không ngại mang tiếng yêu trước và sau đó lại chung thủy
đến cùng, kể cả vì thế mà bị lừa lọc phản bội rồi thân tàn ma dại và suốt đời
mang tiếng khờ khạo, nhẹ dạ. Xúy Vân trong vở chèo cùng tên đã đứng cao hơn Trần
Phương, như Kiều có chút gì đó hết mình hơn, người hơn, mà lại trong sạch hơn,
bên cạnh Kim Trọng.
Sang thời hiện đại, một Tố Tâm “ bít khăn tua đen”,“đầu ngôi rẽ giữa" " tóc vuốt sáp”, cũng là nhiều lần cao đẹp hơn trong
tình yêu, so với nhân vật xưng tôi trong thiên truyện của Hoàng Ngọc Phách.
Tố Tâm vừa say đắm hơn, vừa rộng lượng hơn bên người học trò Đạm Thủy một mực tuân thủ lể giáo, lúc nào cũng ra vẻ long trọng song thực ra lại nhút nhát.
Tố Tâm vừa say đắm hơn, vừa rộng lượng hơn bên người học trò Đạm Thủy một mực tuân thủ lể giáo, lúc nào cũng ra vẻ long trọng song thực ra lại nhút nhát.
Chẳng
trách ngày nào Hồ Xuân Hương đã tai quái ném ra hình ảnh bố cu lổm ngổm bò trên
bụng.
Đằng sau cái tư thế cụ thể tức cười, câu thơ phát ra một điều khái quát,
nó là một sự thật càng sống càng thấy đúng: đó là vẻ cao quý của một người phụ
nữ Việt Nam, cao quý ngay trong sự chủ động chờ đợi mà Huy Thục hôm nay chạm tới.
Không
biết có nên gọi là truyền thống không, nhưng đấy thật là nét lạ của người phụ nữ Việt Nam và hôm nay cũng được các thế hệ phụ
nữ ta chứng minh. Một trong những trường hợp đó là nhà thơ Xuân Quỳnh.
NIỀM KHAO KHÁT KHÔN NGUÔI
Cũng
như các diễn viên ca, múa và những chị em làm nghệ thuật khác, một phụ nữ làm
thơ viết truyện ở nước ta dễ chuốc lấy nhiều
thành kiến không đâu.
Ngoài việc có hai đời chồng, ở Xuân Quỳnh lại còn kèm thêm
những vụ tai tiếng trong tình yêu mà trong giới gần như không ai không biết.
Nên chi có nhiều người bỡ ngỡ không tin khi nghe nói Xuân Quỳnh là một con người
hết sức tha thiết với hạnh phúc gia đình.
Nhưng sự thật là vậy.
Lớn lên trong cảnh
mồ côi mẹ (Em đánh chắt chơi chuyền từ
nhỏ - Hái rau dền rau rệu nấu canh – Tập
vá may tết tóc một mình – Rồi úp mặt lên bàn tay khóc mẹ), suốt đời người
con gái này khao khát một nơi nương tựa, tức một gia đình hạnh phúc.
Không bao giờ chị yêu một cách đùa cợt. Yêu ai là tính chuyện sống hẳn với người đó.
Không bao giờ chị yêu một cách đùa cợt. Yêu ai là tính chuyện sống hẳn với người đó.
Với
bàn tay thô vụng, bàn tay“mó tới đâu
là đổ vỡ” bàn tay “khi nói chuyện với ai,…thấy tay thừa không
biết giấu vào đâu”, chị chăm chỉ lo việc nhà và không thể làm gì, kể cả đọc
sách làm thơ, nếu chưa lo được cho chồng con bữa ăn ngon, bộ quần áo sạch.
Vốn
có nhiều kinh nghiệm về quyền lực của nhan sắc, nhưng nhân nói về thơ, có lần nhà thơ vẫn cả quyết: “Thơ đối với cuộc sống ví như một người con gái đối với gia đình.
Cái để cho người ta làm quen với nhau là nhan sắc, nhưng để sống với nhau lâu
dài lại là đức hạnh”.
Cùng với tuổi tác,
mỗi ngày Xuân Quỳnh mỗi thấy cái đức hạnh ấy là lẽ sống của mình.
Tiếp nối những bài thơ khao khát tình yêu lúc trẻ, các bài làm mấy năm cuối đời thường đầm ấm một tình yêu gia đình, yêu chồng, yêu con. Nhiều bài thơ thiết tha như lời tự nhủ rằng có lẽ trong hoàn cảnh nước mình, được như thế này có thể gọi là hạnh phúc.
Tiếp nối những bài thơ khao khát tình yêu lúc trẻ, các bài làm mấy năm cuối đời thường đầm ấm một tình yêu gia đình, yêu chồng, yêu con. Nhiều bài thơ thiết tha như lời tự nhủ rằng có lẽ trong hoàn cảnh nước mình, được như thế này có thể gọi là hạnh phúc.
Tuy mỗi thời cái hạnh phúc ấy
có một khuôn mặt riêng, song bao giờ con người ấy cũng run rẩy khi được biết mình đang
được có nó, đang được sống với nó.
Và càng mong manh dễ vỡ, với Xuân Quỳnh, nó lại càng
đáng quý.
LẦM LẪN NHƯNG KHÔNG MAN TRÁ
Có
một mô-típ thơ thường hay trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh là cỏ hoang, hoa dại, với tất cả những cay đắng thua thiệt mà loài hoa này phải chịu. Trong bài Hoa dại núi Hoàng Liên, chị viết:
Anh
đừng hỏi em tên hoa làm chi nữa
Những hoa này chỉ hoa dại mà
thôi
Không phải hoa được ở cùng người
Đươc chăm sóc trong mảnh vườn sạch cỏ
Đươc khoe đến muôn màu sắc lạ
Và được đời chiêm ngưỡng mùi hương
Không phải hoa được cắm trên bàn
Trong ngày hội của những niềm vui mới
Những hoa này lại nở cho triền núi
Lại nở cho vẻ đẹp của rừng chung
Nên ít ai để ý sắc từng bông
Chỉ thấy núi muôn màu rực rỡ
Đôi khi giẫm lên hoa mà chẳng nhớ
Có thể chỉ là trong tiềm thức, nhưng hình như nhà
thơ thầm cảm thấy hoa hèn, cỏ dại là ứng với mình, thân phận mình. Tại sao?
Không phải cứ khao khát là người ta đã có được hạnh phúc.
Cũng như phần lớn
chúng ta, trên đường truy tìm hạnh phúc, không biết bao lần trong cuộc đời, con
người thông minh và cực kỳ nhạy cảm này đã lầm lẫn, đã là nạn nhân của những ảo
tưởng về mình và về người.
Cái khỏe của Xuân Quỳnh là đã vượt qua được những
đau khổ để tiếp tục sống. Nhưng tận đáy lòng nhà thơ vẫn thấy có chút gì đó
xót xa tội nghiệp cho mình: giá có ai bảo mình, giá mình biết sống hơn…
Trong
hình ảnh hoa dại, nhà thơ không chỉ tìm thấy niềm an ủi, ở đó còn bao hàm cả lời
thú nhận về sự bất lực của bản thân, cả nỗi hờn tủi oán trách.
Có một điều cũng phải nói ngay là mặc dù qua nhiều lần
lầm lẫn, nhưng Xuân Quỳnh thường có cách ứng xử khác hẳn những kẻ tầm thường: con người này không man trá.
Khi nhận ra lầm lẩn, chị sẵn sàng làm lại tất cả. Chị ghê sợ những gì giả tạo.
Ở đây không chỉ có sự thành thực mà còn có một chút gì như sự sòng phẳng.
Cái thành thực trước khi cần cho mọi người, đã là cần cho chính người trong cuộc.
Khi nhận ra lầm lẩn, chị sẵn sàng làm lại tất cả. Chị ghê sợ những gì giả tạo.
Ở đây không chỉ có sự thành thực mà còn có một chút gì như sự sòng phẳng.
Cái thành thực trước khi cần cho mọi người, đã là cần cho chính người trong cuộc.
Trong khi
làm khổ Xuân Quỳnh không biết bao nhiêu mà kể, sự thành thực này tựu trung chỉ
cứu chị, giúp ích chị trong một việc: làm thơ.
Càng đau khổ càng muốn tìm đến
thơ để tự giải thoát.
Tự trong thâm tâm chị hiểu rằng nếu cuộc sống là cái gì
quan trọng nhất với mình thì thơ lại là cách duy nhất để mang lại cho cuộc sống
đó là một hình thức bất tử.
BỊ
TÌNH YÊU HÀNH HẠ
Sinh thời, khi trò chuyện với bạn bè, Xuân Quỳnh
thích nhắc lại câu nói của L.Tolstoi, đại ý cho rằng người ta sẽ có sức mạnh vô
cùng vô tận nếu có tình yêu.
Tình yêu làm nên tất cả.
Tình yêu làm nên tất cả.
Nếu có một thứ tôn giáo
tình yêu thì chị là một trong những tính đồ ngoan đạo nhất. Tình yêu quả thật
đã giải phóng ở chị có những sức lực không ngờ trong cuộc sống, làm việc và gây
dựng gia đình.
Và chị tưởng rằng với tình yêu, mình có thể làm được tất cả, -- biến
kẻ xấu thành người tốt, người đàn ông ích kỷ thành người chồng hết lòng với vợ
con.
Thậm chí tình yêu vượt luôn được khoảng cách xa về thời gian tuổi tác để
đưa bất kỳ lứa đôi nào trở thành những cặp vợ chồng mẫu mực.
Chỉ cần có một chút kinh nghiệm thôi, người ta sẽ nhận
ra rằng niềm tin ấy của Xuân Quỳnh là ảo tưởng. Là yếu tố thiết yếu để tạo nên
hạnh phúc nhưng tự nó, tình yêu chưa phải là hạnh phúc.
Vả chăng, nói gì thì
nói, sức mạnh của tình yêu chỉ có giới hạn, nhất là khi nó chưa phải là sự hòa
hợp của hai tâm hồn mà mới là tình yêu một phía của người đàn bà với người đàn
ông.
Giá có dịp đứng ngoài mà nhìn, Xuân Quỳnh sẽ công bằng
mà nhận ra rằng trong khi chỉ mang lại một ích niềm vui, thì ảo tưởng kia đã là
nguồn gốc gây nên mọi bất hạnh nơi chị.
Đồng thời với việc bòn rút tâm lực, nó còn làm biến dạng cả chính chị nữa.
Đồng thời với việc bòn rút tâm lực, nó còn làm biến dạng cả chính chị nữa.
Con người rất sợ cái gì đó dối trá giả tạo,
có lúc phải đóng vai hạnh phúc.
Trót kêu căng tin vào sức mạnh của chính mình, chị
không còn dám chia sẻ về nỗi đau khổ với bất cứ ai.
Cái giá phải trả quả thật quá lớn!
Nhưng nếu được cãi lại, thì Xuân Quỳnh không ngần ngại
mà nói rằng: “Với tôi, niềm tin ấy chính là số phận”.
Khi đã thành lời nguyền, dù nặng nề biết bao nhiêu,
chị vẫn tự nguyện mang nó.
Và như sau này ta thấy, chị đã mang nó cho tới lúc
chết. Hình ảnh cả đời Xuân Quỳnh rút lại là một hình ảnh con người sồng bằng tình yêu, làm thơ nhờ
tình yêu, sung sướng vô cùng trong tình yêu và cũng bị tình yêu hành hạ đến
cùng cực.
…Tôi có một tình yêu rất sâu
Rất dữ dội nhưng không bao giờ yêu
được hết
Ở các cô, các cô âm thầm chịu đựng
Cho đến ngày tình yêu ấy tắt đi
Còn ở tôi, tôi mang nó nặng nề
Muốn nguôi quên, nó lại ngày càng lớn
Luôn xáo động tôi không sao ngủ được
Không làm sao có thể ngồi nguyên
…
Ôi con trai thật là kỳ lạ
Tôi yêu tất cả mọi người mà chẳng
yêu được riêng ai
Không sĩ diện đâu, nếu tôi yêu được
một người
Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi
nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu ngàn lần cay đắng
Những câu thơ ấy là lời thú nhận của Xuân Quỳnh
nhưng cũng là thú nhận của bao thế hệ phụ nữ từ Xúy Vân, Kiều, Tố Tâm đến cô
gái trong bài hát Đợi, cô gái trong
bài hát Sợi nhớ sợi thương (“nghiêng
sườn đông mà che mưa anh -" "… mà em nghiêng hết ấy về phương anh”).
Chỉ những người
phụ nữ say đắm, tự tin, những người hồn nhiên nhận lấy sự ràng buộc của số phận
mới có cách cư xử như vậy.
Trong khi
thông cảm với những đau đớn đến xé ruột xé lòng họ từng phải gánh chịu, đồng thời
chúng ta cũng hiểu rằng trước tiên họ đáng kính trọng.
Đã
in Những kiếp hoa dại 1993
Mời xem lại Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại trong thơ, trên blog này 08-09-2013
Mời xem lại Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại trong thơ, trên blog này 08-09-2013