Khả năng tỏa sáng
Hè 1939, nhân cái chết của Tản Đà , Xuân Diệu từng viết đại ý: anh – tức Xuân Diệu khi đó mới 23 tuổi – sẽ mang tiếng là người bội bạc nếu không nhắc lại những kỉ niệm thuở nhỏ từng yêu thơ Tản Đà ra sao.
Những ngày này, khi Xuân Diệu nằm xuống, nhiều thế hệ nhà văn Việt Nam cũng sẽ nói như vậy: Chắc chắn chúng ta sẽ mang tiếng bội bạc, nếu không ghi nhận những đóng góp của Xuân Diệu trong cuộc đời văn học của mỗi người.
Hè 1939, nhân cái chết của Tản Đà , Xuân Diệu từng viết đại ý: anh – tức Xuân Diệu khi đó mới 23 tuổi – sẽ mang tiếng là người bội bạc nếu không nhắc lại những kỉ niệm thuở nhỏ từng yêu thơ Tản Đà ra sao.
Những ngày này, khi Xuân Diệu nằm xuống, nhiều thế hệ nhà văn Việt Nam cũng sẽ nói như vậy: Chắc chắn chúng ta sẽ mang tiếng bội bạc, nếu không ghi nhận những đóng góp của Xuân Diệu trong cuộc đời văn học của mỗi người.
Chúng ta biết ơn một Xuân Diệu – nhà thơ. Bây giờ mà nói yêu
thơ Xuân Diệu hồi Thơ Mới, nghe như cổ cổ thế nào ấy! Nhưng quả thật với lớp
người ở lứa tuổi như tôi, chúng tôi đã vào nghề cùng với việc nhập tâm những bài
thơ, nhiều câu thơ của Xuân Diệu , từ Huy
hoàng trăng rộng nguy nga gió, từ Hoa
bưởi thơm rồi đêm đã khuya ngày nào, tới những câu thơ anh mới viết một hai
chục năm gần đây, loại như Vai anh khi để
đầu em tựa, Cân cả buồn vui của cuộc đời. Mà những câu thơ như thế nhiều
lắm.
Chúng ta biết ơn một
Xuân Diệu -- nhà văn. Đối với riêng tôi, văn xuôi Xuân Diệu luôn luôn là một cái
gì kì lạ, nếu không nói là một bí mật. Nó du dương đầy nhạc tính mà lại không
sa vào biền ngẫu; nó dồn dập như hơi thở, bề ngoài có cái vẻ rối rắm không mạch
lạc gì cả, mà rút lại vẫn trong sáng tự nhiên; nó rất gây ấn tượng.
Xuân Diệu đã dùng thứ
văn xuôi tài ba đó để viết bút kí sau những chuyến đi. Nhưng chỗ đắc dụng nhất
của văn xuôi Xuân Diệu phải kể là những bài viết về thơ Hồ Xuân Hương, Kiều, về
ca dao Nam Trung Bộ. Bên cạnh Xuân Diệu giảng rất hay về Nadim Hikmét, P.Nêruda,
A. Musset… có một Xuân Diệu chân thành cởi mở “trân trọng muôn vàn, muôn vàn
trân trọng” khi nói về các bậc thầy làm nên di sản văn học dân tộc. Chúng ta sẽ
bội bạc, nếu sau những bài đó của Xuân Diệu không tìm cách hiểu thêm và yêu
thêm các nhà thơ cổ điển Việt Nam,
như Xuân Diệu từng mong muốn.
Sau hết - thật ra, đối với một số người đây là
điều đáng nói đầu tiên – chúng ta sẽ mang tiếng là bội bạc, nếu không nhắc tới
con người tác giả Thơ Thơ, Riêng chung,Cầm
tay… người từng để lại trong chúng ta một ấn tượng hết sức mạnh mẽ về khả
năng làm việc, sức đọc, sức viết, về lòng yêu nghề và tinh thần không ngừng
trau dồi nghề nghiệp. Chỉ cần một vài lần dự họp với Xuân Diệu là người ta
không thể quên được anh với lối nói trực tiếp, nồng nhiệt, sẵn sàng bất bình phẫn
nộ nếu chưa cột được mọi người vào những ý kiến gan ruột của mình. Chỉ cần một
vài lần đến nhà đặt bài, lấy bài anh viết là người ta không thể quên được anh
với nếp làm việc tỉ mỉ, kỹ lưỡng và một quan niệm sống thiết thực, luôn luôn
chú trọng hiệu quả cụ thể.
“Lòng Xuân Hương là lửa, tay Xuân Hương có điện”.
Xuân Diệu đã viết về Bà chúa thơ Nôm như vậy. Bởi cái lửa, cái điện ấy luôn
luôn thấy cháy lên, nhói lên ở chính anh, trong cái cách Xuân Diệu sống và
viết. Có việc gì dính dáng đến văn học mà anh ngại ngần! Vâng, so với người
khác, anh đã làm được rất nhiều, trước tác của anh bằng sự nghiệp vài ba người
khác cộng lại. Nhưng lúc nào anh cũng lo để làm nữa, làm nữa.
Như hôn
mãi ngàn năm không thỏa
Bởi yêu
bờ lắm lắm bờ ơi!
Cái không thỏa, cái lắm lắm ấy, là hồn cốt của
thơ anh, của con người anh mà không hề giấu giếm!
… Trong số những kỷ niệm làm việc với Xuân Diệu,
tôi nhớ lần gặp anh trước cửa Hội Nhà Văn hơn một năm trước khi anh mất. Theo
chủ trương của nhà xuất bản Tác phẩm mới
nơi tôi công tác, tôi tìm cách gợi ý để Xuân Diệu viết hồi ký về cuộc đời mình.
Dĩ nhiên là Xuân Diệu không nhận vì anh cho rằng còn lâu mới đến lúc ấy, trước
mắt anh còn nhiều việc cần hơn và phải làm ngay. Chúng tôi nói lan man sang một
ít chuyện khác và để trở lại với đề nghị viết hồi ký của mình, tôi buột miệng:
-
Tưởng như đã
viết rất nhiều, nhưng còn bao nhiêu chỗ, chính Xuân Diệu chưa khai thác hết mình!
Lần đầu tiên tôi thấy ở Xuân Diệu có một thoáng
buồn, một chút như là chạnh lòng. Chẳng lẽ là như thế chăng, một người đã chịu
viết như anh lại còn nhiều điều chưa viết?
Như thế chẳng là buồn lắm sao!
Một chút chạnh lòng hôm ấy ở Xuân Diệu – như bao nhiêu sự hứng khởi, sự bền bỉ ở anh bấy lâu, như bản thân công việc của Xuân Diệu xưa nay – truyền sang cho tôi, người đang nói chuyện với anh, một lòng ham muốn khôn cùng: ham sống, ham viết, muốn dồn tất cả những gì đã sống lên trang viết.
Như thế chẳng là buồn lắm sao!
Một chút chạnh lòng hôm ấy ở Xuân Diệu – như bao nhiêu sự hứng khởi, sự bền bỉ ở anh bấy lâu, như bản thân công việc của Xuân Diệu xưa nay – truyền sang cho tôi, người đang nói chuyện với anh, một lòng ham muốn khôn cùng: ham sống, ham viết, muốn dồn tất cả những gì đã sống lên trang viết.
Sự sống
chẳng bao giờ chán nản: tôi nghĩ
rằng ấy là một trong những câu thơ đáng khắc lên mộ một con người sống và làm
việc không biết mệt mỏi này.
Và tôi xin nhắc lại: Chúng ta sẽ chịu tiếng là
bội bạc nếu quên đi không ghi nhận sức tỏa sáng ấy của Xuân Diệu giữa mọi
người. Có phải dễ dàng gì để lúc nào trong đời cũng gặp được một người như vậy!
19- 12- 1985
Bài viết cho
báo Văn Nghệ, ngày Xuân Diệu
qua đời
Xuân Diệu và Hà Nội
Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại
hội viết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957),
Xuân Diệu từng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà
Nội phải đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.
- Thưa chị,
trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế.
Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một con sông trẻ... Núi Tản Viên tinh
khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi
mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông
của chị. Ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào,
cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy
đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ
thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồng bào miền Bắc càng vào nhiều trong em
thì những mùa mưa của em cũng như thêm gió thêm sương, thêm một vài luồng lạnh
quí báu, hiếm hoi...”.
Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà
một người vốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà
Nội.
Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như kỳ diệu.
Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như kỳ diệu.
“Tôi được
đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trường Bưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó
còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít. Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có
thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nẩy nở lần thứ hai... Đi vào những trại trồng
hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoà đào ở Nhật Tân, đối với tôi vào tuổi 18, 19
như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.
Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến
tâm hồn một người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với
miền Bắc, trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.
Trên phưong diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ
rõ rệt hơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn trào lên mạnh mẽ
hơn.
Ở Quy Nhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản
Đà, khi nghe tin An nam tạp chí tục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm
hỏi .
Nay Xuân Diệu được gặp Tản Đà giữa toà soạn một Ngày nay, nơi
Xuân Diệu bước vào nghề làm báo hỏi không vui sao được .
Quan trọng nhất, ở Hà Nội, Xuân Diệu quả quyết nhập bằng được vào Tự lực văn đoàn và trở thành một thành viên của cái văn đoàn lừng lẫy một thời này.
Cùng làm Ngày nay có người bá chủ thi đàn đương thời là Thế Lữ. Tác giả Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những trang đề tựa.
Quan trọng nhất, ở Hà Nội, Xuân Diệu quả quyết nhập bằng được vào Tự lực văn đoàn và trở thành một thành viên của cái văn đoàn lừng lẫy một thời này.
Cùng làm Ngày nay có người bá chủ thi đàn đương thời là Thế Lữ. Tác giả Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những trang đề tựa.
Các sách văn học sử về sau thường ghi Thế Lữ đã nhường ngôi bá chủ thi đàn cho nhà thơ mới chuyển từ Quy Nhơn ra Hà Nội.
Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của Xuân Diệu in báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và v.v...
Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của Xuân Diệu in báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và v.v...
Những chi
tiết nho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã sống tự nhiên hòa hợp
trong vòng tay các đồng nghiệp, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng
nghiệp... mà ngòi bút có thêm cái hứng khởi của một người tìm ra chính mình.
Trường hợp của ông chỉ chứng tỏ cái quy luật chắc
chắn là đúng với đời sống tiền chiến: Người ta chỉ trở thành nhà văn khi về với
thủ đô, bản thân trở thành một bộ phận của đời sống văn học văn học thủ đô.
Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái
chất “tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho
nó thêm mềm mại sâu sắc hơn.
Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình
thành. Thơ thơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức,
năm 1941, khi làm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại
lần thứ nhất Thơ thơ được in ra, như một ngày tháng đáng nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác
phẩm theo thứ tự thời gian in ở
cuối sách.
Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội trước cách mạng, Xuân
Diệu nhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc.
Những trang văn xuôi của tác giả in trên Ngày
nay, trước khi đưa vào Phấn thông vàng có một không khí buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm
hồn tác giả đồng thời lại cho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách
mạng mà ở người khác không thật rõ.
Nơi ở của một người bạn hiện ra dưới ngòi bút ông
với vẻ đa dạng của cái buồn:
“Tôi biết
nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau. Con đường sắc xanh không
rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng
không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng
tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải
của một mảng đời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:
“Đoạn
đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một
ngõ hẻm. Đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu,
không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. Ánh sáng không
chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi
chiều dài. Ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để
vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.
Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách
mạng rất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân
Diệu hay nói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra
sáng, không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ
nhoi, nhưng không cái nào giống cái nào.
Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã
quyết định những chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu...
Trong Những bước đường tư tưởng của tôi,
ông kể:
“Năm
1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không được, viết
văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện... Tôi ngồi giở quần áo cũ ra và
giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô”.
Trước
khi về 61 Hàng Bông, cái gác vá áo
nói trên, Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than. Trong ngôi nhà này
Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơ Lưu Trọng Lư.
Lưu
Trọng Lư từ miền trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đã sống bằng ngòi
bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san , và đặc biệt làm cho tờ Tao đàn, lương
mỗi tháng sáu chục đồng.
Nhưng
bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộc sống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên
tâm. Nhìn vào đời sống Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm.
Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đã cảm thấy
hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người.
Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng.
Xuân Diệu nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách thơ”, thật là cụ thể.
Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng.
Xuân Diệu nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách thơ”, thật là cụ thể.
Có lẽ là
nghề viết không nuôi nổi người ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân
Diệu vẫn phải bỏ cả hai mà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy
Cận đỗ kỹ sư canh nông nuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.
Khi nghe
tôi hỏi về những ấn tượng mà Hà Nội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước
mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồi nói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng
gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn một điều ông đã nói ngay lúc đó. Hà Nội bây giờ là
cái xưởng làm việc của ông, là nơi cung cấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy
nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủ ấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo
thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lên thành cây.
Ngoài ra, phải nói là từ sau cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân...
Trong khi đường trăng- đường thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu hối hả gấp gáp " Mau với chứ ! Vội vàng lên với chứ" của thời trẻ.
Ngoài ra, phải nói là từ sau cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân...
Trong khi đường trăng- đường thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu hối hả gấp gáp " Mau với chứ ! Vội vàng lên với chứ" của thời trẻ.
1984
Đã
in trong Một số nhà văn VN hôm nay với Hà
Nội, 1986
Toà ngang
dãy dọc đồ sộ,
nhưng sau đó sao đây?
Nhân việc
xuất bản toàn tập Xuân Diệu, 2001
I
Ý nghĩ đầu tiên của tôi khi nghe tin Toàn
tập Xuân Diệu được in ra là ở dưới
suối vàng, nhà thơ chắc rất sung sướng.
Còn nhớ những
quyển sách đầu tiên của Xuân Diệu mà chúng tôi được đọc sau khi Hà Nội đươc
tiếp quản (tháng 10/1954).
Mặc dầu sách ra
đời ngay trong lòng Việt Bắc kháng chiến nghĩa là được in trên giấy dó làm theo
lối thủ công chỗ dày chỗ mỏng không đều,
mặt giấy nhiều khi còn lẫn cả một mẩu rơm -- như Xuân Diệu từng tả khi nói về những số Văn nghệ đầu
tiên; và mặc dầu đó chỉ là những tập thơ mỏng, song sau trang một đề tên sách,
lật đến trang hai, bao giờ chúng tôi cũng tìm thấy một dấu
hiệu riêng của Xuân Diệu: phải có cái mục Cùng một tác giả, ở đó nhà thơ
trình với độc giả cho đến thời điểm ấy ông đã có bao nhiêu đầu sách.
Sau này sách
in đẹp hơn giấy trắng hơn thì việc liệt kê việc mình đã làm càng được Xuân Diệu
xem trọng, và nhìn qua những cuốn sách ông soạn trong những năm cuối đời chúng
tôi đôi khi phải bái phục chẳng riêng vì nội dung sách và khối lượng công việc
- điều này thì tất nhiên rồi - mà phục
ngay ở cái cách ông tận tuỵ với mình, ghi chép bằng hết những gì đã viết.
Từ những trang Cùng một tác giả đó, trong
lòng chúng tôi, Xuân Diệu hiện ra như
một người làm nghề chuyên nghiệp hơn ai hết.
Trong khi nhiều nhà văn nhà thơ ở Việt Nam
không thích nói nhiều về những gì mình đã làm, họ muốn tỏ ra khiêm tốn, muốn chứng tỏ rằng mình nhìn đời một cách hư
vô sao cũng được và cái chính là vì họ dừng
lại ở một quan niệm khá tài tử về chuỵện cầm bút, thì Xuân Diệu không
thế.
Học theo Tản Đà
hồi nào, ông có ý thức rằng mình có quyền tồn tại như một thi sĩ, mình là người
có nghề đàng hoàng và trong nghề này ai chăm chỉ siêng năng hơn người đó đáng
đươc kính trọng hơn.
Có một câu nói
Xuân Diệu hay nhắc lại với cánh chúng tôi - những người thường được mệnh danh
là lực lượng trẻ trong những năm chống Mỹ
đại ý: các cậu còn trẻ quá các cậu hay phung phí sức lực. Còn mình ấy ư,
Xuân Diệu này chỉ tồn tại nhờ biết dồn sức mạnh của năm ngón tay thành sức mạnh
chung của một nắm đấm.
Và Xuân Diệu đã làm đúng như
vậy. Điều mà ông sợ nhất là sự dang dở. Làm
gì ông cũng muốn đào cùng tát cạn.
Lại nhớ một câu thơ tự thuật
của Xuân Diệu : Rất tồi toán pháp khá văn chương. Có thể là điểm toán của ông khi đi học không cao, nhưng
sự tính toán của ông cho đời mình thì chẳng xoàng tí nào cả.
Khả năng nhìn xa trông rộng ; sự
lịch lãm trong nghề; vốn hiểu biết phong phú; và thói quen lao động cật
lực...bấy nhiêu yếu tố dồn cả lại làm nên một sự nghiệp mà ngày nay nhìn lại
qua bộ toàn tập sáu cuốn mới in phải nói là một thứ toà ngang dãy dọc đồ sộ.
Trong từng lúc từng chỗ có thể
nói con người này là một thi sĩ bẩm sinh luôn
luôn mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Nhưng nhìn chung cả một đời
người thì lại có thể nói là ông rất
tỉnh. Ông tìm cách huy động tất cả những gì vốn có.
Cũng tức là ông đã tìm ra được cái cách hữu hiệu nhât để
vắt kiệt sức lực của mình.
Và ông muốn chung quanh ghi nhận
cho ông cái nỗ lực ông đặt vào công việc.
Ai đã từng có lần ngồi nghe Xuân Diệu
nói chuyện thơ hẳn nhớ ông rất chú ý tạo không khí cho buổi trình diện của
mình, phải thêm lọ hoa như thế này, phải đặt mi-cơ-rô như thế kia và sau những
đoạn nói hay người nghe phải ủng hộ diễn giả bằng cách vỗ tay ra sao...
Thành thử những hình thức tổng
kết về một tác giả như làm tuyển tập làm toàn tập là nằm trong sự tính toán của
ông.
Ông luôn ước ao một sự trình diện đầy đặn, một sự kỉểm kê chặt chẽ chính
xác ngay về số lượng, tức những gì ông đã làm được mang bày hết và ông muốn có
được cái hình thức tồn tại như nhiều nhà văn nhà thơ của thế kỷ này đã được
hưởng.
Đến bây giờ mới thấy đây
Mà lòng đã chắc những ngày một hai
Có thể mượn lại câu Kiều đó để
diễn tả sự hoan hỉ mà Xuân Diệu dành cho toàn tập nếu như ông còn sống.
II
Thế nhưng sau khi đã thông cảm với
niềm ao ước khôn nguôi của Xuân Diệu và mừng cho tác giả, có lẽ sẽ không có gì
là quá nếu với tư cách bạn đọc, chúng ta thử nêu lên một ít điều ước ao thêm từ
bộ sách sáu tập dày cộp này.
Những ngày
đầu 1945, trong một buổi nói chuyện với các bạn sinh viên lúc ấy, tác giả Thơ thơ có nêu một căn bệnh mà theo ông là phổ biến ở dân mình, ấy là
bệnh chuộng hình thức, làm cái gì cũng muốn làm thật to, sơn phết cho thật hào
nhoáng.
Ông gọi đó là
bệnh voi nan (Toàn tập mới in, tập 3, trang 18).
Vậy mà, hỡi
ôi, với căn bệnh mà ông chế giễu đó, ông đâu có tìm được vắc-xin miễn dịch !
Ông từng có
lý luận cái rễ của cây cúc cũng có mùi
hăng hắc, nói nôm na là những gì do ông viết ra vẫn có cái duyên riêng mà phi Xuân
Diệu không ai viết được.
Có điều, tôi nghĩ việc gì rồi cũng phải có chừng mực.
Mặc dù vẫn mang cái giọng riêng của Xuân Diệu, song những bài viết loàng xoàng dưới cơ so với tài năng của ông khi được đặt cạnh nhau, lại có cái phản tác dụng kỳ lạ.
Mấy chục năm trước đọc đã mệt mỏi, đến nay, lại càng khó ai kham nổi!
Có điều, tôi nghĩ việc gì rồi cũng phải có chừng mực.
Mặc dù vẫn mang cái giọng riêng của Xuân Diệu, song những bài viết loàng xoàng dưới cơ so với tài năng của ông khi được đặt cạnh nhau, lại có cái phản tác dụng kỳ lạ.
Mấy chục năm trước đọc đã mệt mỏi, đến nay, lại càng khó ai kham nổi!
Những nhận xét
này có thể với cả những bài thơ yếu, lẫn những bài nói về kinh nghiệm làm thơ cũng như bình thơ mà ở đó
ngòi bút Xuân Diệu rơi vào dài dòng kể lể.
Cầu cho vong
linh ngưởi đã khuất tha cho kẻ hậu sinh và cũng xin đừng ai bắt bẻ tôi theo cái kiểu “Anh đã viết đươc như thế
chưa mà anh chê ?!”.
Tôi không muốn
phải chứng kiến những phút yếu đuối kém cỏi của con người mà tôi hằng yêu kính
dù tôi biết rằng bất cứ ai, kể cả các
thiên tài, cũng có những phút như thế.
Và tôi muốn đối
xử với Xuân Diệu không phải như một người đã qua đời cách đây gần mười sáu năm,
mà như một người đang sống và còn sống mãi trong lòng các thế hệ bạn đọc tương
lai.
Nhưng đây là toàn tập cơ mà -- có
bạn sẽ nhắc.
Vâng, đồng ý với bạn : một dịp kiểm kê tất cả những gì Xuân Diệu đã
viết như thế này là một việc thiết yếu
-- chẳng hạn, chính nhờ có toàn tập sáu tập hôm nay mà người ta thấy rõ hơn
những điều lâu nay tôi mới thấy
lờ mờ .
Với những ai làm công tác nghiên cứu văn học thì toàn tập này là rất cần
với điều kiện là ngoài việc khảo chứng kỹ lưỡng đồng thời người biên soạn phải tự sưu tầm lấy nhiều bài viết
lẻ rải rác đây đó của Xuân Diệu trong đó có những bài rất hay mà chưa từng được đưa vào tập sách nào.
Còn đối với đa số bạn đoc, tôi
cầu mong sớm có một người làm công việc gạn lọc để rút ra từ toàn bộ sáng tác
của Xuân Diệu khoảng độ ngàn trang gì đấy mà toàn những trang tinh tuý bộc lộ hết cỡ tài năng của Xuân Diệu.
Theo chỗ tôi biết, mặc dù rất chủ
quan và hay lo vun vén cho bản thân, nhưng Xuân Diệu cũng là người trọng lẽ
phải và biết phục thiện.
Được thấy những cuốn sách xứng đáng gọi là tinh tuyển của
mình như vậy, nhà thơ sẽ có cái hào hứng như Từ Hải gặp Kiều và sau khi khen
cho con mắt tinh đời, sẽ xem như một người tri kỷ.
Vải nét về bộ toàn tập nói ở trên
Toàn tập Xuân Diệu (6 tập) in ra ở
NXB Văn học, H.2001.
Sách do Nguyễn Bao sưu tầm biên soạn và giới thiệu. Tổng cộng
tới hơn 5.000 trang
Tập 1,1020 trang in lại toàn bộ thơ trong
các tập từ Thơ thơ đến Thanh ca, nhưng do
không chọn bài lẻ nên lại thiếu Thơ duyên, Hoa đêm, Hy mã lạp sơn…
Tập 2, 784 trang gồm các tập văn xuôi Phấn
thông vàng,Trường ca..
Tập 3, 1144 trang gồm Thanh niên với
quốc văn,Tiếng thơ, Những bước đường tư tưởng của tôi…
Tập
4, 844 trang gồm Đi trên đường lớn,Và cây đời mãi mãi xanh tươi, Mài sắt nên
kim.
Tập
5, 676 trang gồm Công việc làm thơ
và một số tác phẩm lẻ giới thiệu mấy nhà thơ Nadim Hikmet, Tagor, Tú
Mỡ, Huy Cận...
Tập
6, 896 trang, gồm các bài giới thiệu các nhà thơ cổ điển và cận đại, từ Nguyễn Trãi tới Trần Tuấn Khải.
Bài đã inTT&VH,2001