VƯƠNG-TRÍ-NHÀN

Xuân Quỳnh, cuộc đời để lại trong thơ

Những xúc động thường trực 
“Người ta làm thơ như thế nào?”. Đã nhiều lần, trong tôi nảy ra cái câu hỏi có vẻ tò mò vậy, mà chưa dám hỏi một ai, vì nhiều lần cứ định hỏi là mọi người tìm cách lảng. May mà Xuân Quỳnh không lảng tránh thẳng thừng. Để giúp tôi “mục sở thị”, bên cạnh bài thơ, chị cho xem những quyển vở đã ghi chi chít những chữ là chữ: Chị đã nháp bài thơ ra văn xuôi trước khi hoàn chỉnh nó và cho nó một khuôn mặt cố định trên trang giấy. 
- Lúc viết những dòng này, tôi như người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết những ý nghĩ đang ào ào kéo đến trong đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vần, tôi làm sau, việc ấy đơn giản hơn.

Ngừng một lát, dường như để nhớ lại một chuyện gì đấy, Xuân Quỳnh kể thêm: 
- Hôm nọ có người hỏi tôi có hay thuộc thơ mình không. Quả thật, có khi tôi quên chứ không phải cái gì cũng thuộc đâu. Nhưng những bài thơ mà tôi thích thì bao giờ tôi cũng nhớ, nhớ cái tâm trạng nó chi phối mình, khi làm bài thơ ấy...
- Nghĩa là sự làm thơ ăn ở những xúc động?
- Người khác thế nào, tôi không biết. Với lại, ông còn lạ gì những xúc động ẩm ương của những nhân vật ấm đầu, khi viết tưởng mê man run rẩy lắm mà bài thơ vẫn nhạt như nước ốc. Nhưng đúng là bản thân tôi, lúc viết, như là bị ám ảnh, phải viết ra bằng được mới thôi. Còn hình thức thơ bốn chữ hay thơ tám chữ, chuyện ấy sẽ đến sau. Làm thơ mà có mỗi cái vần bắt không xong, thì còn tính chuyện viết lách làm quái gì nữa. 
Nói đến đây, Xuân Quỳnh cười xoà, bảo tôi cất các thứ tài liệu chị cho mượn vào túi, rồi lảng sang chuyện khác. 

Mạch thơ hồn hậu 
Thời xưa, tương truyền có những nhà thơ xuất khẩu thành chương, những người buộc phải làm thơ về một đề tài nào đó trong một thời hạn nào đó, và danh bất hư truyền, bao giờ cũng viết nên những bài thơ đọc được. 
 Gạt đi lối bắt vần ép chữ gò gẫm kiểu mấy chàng hay chữ làm thơ con cóc, thì đúng là có những người sinh ra để làm thơ, và các bài thơ được hình thành một cách xuất thần, nghĩa là thật dễ dàng, như có ai ốp đồng vào tay vậy. Kiểu như thơ Hồ Xuân Hương:

 - Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
- Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông

Thơ Tú Xương: 
- Sông kia rày đã nên đồng... 
Ở đây tôi không dám nói trong những người làm thơ hiện nay, ai sẽ còn lại với văn học, sáng tác của ai có giá trị lâu dài. Nhưng nếu như cần nêu lên một người hình như rất gần với thơ, sinh ra để làm thơ, thì người đó là Xuân Quỳnh. 
Nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh có lần bảo tôi: 
- Thơ Xuân Quỳnh tự nhiên, như đã gọi là phụ nữ thì phải sinh con đẻ cái vậy. 
Sau khi đọc xong bài Sóng, đăng trên báo Văn Nghệ - đầu 1968, nhà thơ Vũ Cao cũng có tâm sự, đúng kiểu đồng nghiệp vẫn nhìn nhau: 
- Bài này Quỳnh nó viết bợm thật. Nghĩa là đọc xong, tự nhiên mình cũng có ý nghĩ là phải viết, viết một cái gì cho ra trò một chút, cho nó phải nể. 
Những ý kiến tương tự như thế - khen thơ Xuân Quỳnh dễ đọc, khen thơ làm tự nhiên mà thuyết phục - khá nhiều. 
Thì ra, bên cạnh việc nhắc nhở nhau lao động kiên nhẫn, bền bỉ, chúng ta còn đều thống nhất ở một điểm nữa: vẻ đẹp cao quý nhất trong văn học phải là vẻ đẹp tự nhiên. Nó không có quyền mang dấu ấn những gắng gỏi gò gẫm nơi tác giả, dù khi viết, tác giả đã phải lao tâm khổ tứ rất nhiều. Nhà văn phải làm chủ cảm hứng của mình, phải biết “thai nghén”, chuẩn bị, lại phải mau mắn thông minh khi “sinh nở”. Nhiều người thành công cho biết càng kéo dài thời gian viết, tác phẩm càng dễ nhạt. 

Theo sự quy định của hoàn cảnh  
Ấn tượng về một cái gì tự nhiên càng rõ rệt hơn khi người ta nhìn vào con đường Xuân Quỳnh đã qua để đến với văn học.  
Có một chi tiết tiểu sử nhiều người đã biết, ấy là trước khi làm thơ, Xuân Quỳnh là một diễn viên múa. Khi nghĩ đến nghề này, nhiều người tỏ ý coi thường và quả thật họ có lý riêng: ở Việt Nam, nghệ thuật múa chưa được nâng lên thành một hoạt động tinh thần mà chỉ dừng lại thuần tuý ở một sự khéo léo bản năng. Trường hợp của Xuân Quỳnh cũng không ra ngoài cái quy luật chung đó. ở tuổi mười bốn, thấy có thông báo tuyển văn công liền thử vào thi xem sao và từ khi thi vào đến khi chia tay chẳng qua một trường lớp nào cả. 
Nhưng nghĩ lại thì con đường mà Xuân Quỳnh đến với thơ so với hồi đến với múa đâu có khác?! Cũng như nhiều bạn bè cùng lứa, người làm thơ này đã làm cái nghề mình có năng khiếu theo kiểu tự nhiên thích, thấy mọi người làm thì cũng thử làm xem sao, và lấy số lượng thơ được công bố để đo tính tài năng của mình; năng nhặt chặt bị, sau những bài đăng báo thì tính chuyện dồn thơ lại thành tập. Nếu cần nói tới một ám ảnh thường trực thì đấy là ám ảnh có tác phẩm được in, hay nói rộng ra, được nói to lên trước mọi người, được xuất hiện trước công chúng; ngoài ra những vấn đề như thơ là gì, thơ có thể thay đổi như thế nào xem như chuyện trừu tượng xa vời, không việc gì phải băn khoăn cả. Mỗi cá nhân hãy tự khẳng định đi! Còn cái cách để tự khẳng định thì trông vào những người đi trước! Chẳng hạn, một quy trình làm việc quen thuộc của các nhà thơ lúc này là đi thực tế rồi về có ngay sáng tác kịp thời, quy trình này được Xuân Quỳnh tiếp nhận một cách tự nguyện. Nhiều lần lên rừng xuống biển. Nhiều lần về các vùng nông thôn Thái Bình, Hưng Yên. Riêng hai năm 1969-1970 lặn lội vào vùng đất lửa Quảng Bình hàng tháng trời. Đi đâu trở về nhà thơ cũng có được những sáng tác mới, chúng mang được cái nhìn riêng về những vùng đất mà trước đó chị hầu như chưa quen biết. Bởi ở đâu chị cũng có được cái nhìn riêng, đồng thời tìm ra sự gần gũi giữa mình với hoàn cảnh. “Người làm thơ mang tâm hồn trang trải khắp khung cảnh, con người và sáng tác ra đời là một sự đan dệt tự nhiên giữa chủ quan và khách quan” - qua Xuân Quỳnh, một công thức quen thuộc của sáng tác như thế được ứng nghiệm và chứng minh một cách đầy thuyết phục. Xin nhắc lại rằng cái sự tự nhiên này không phải riêng của Xuân Quỳnh mà của cả hàng loạt bạn bè đồng nghiệp. Mỗi thế hệ chỉ có được cái vai trò riêng mà lịch sử giao phó cho họ. 
Kể ra cũng có những hành động mà Xuân Quỳnh đã kiên trì theo đuổi để sống với thơ và hơn thế nữa như là chống lại số mệnh. Một thiệt thòi cho chị và cho nhiều bạn làm thơ cùng tuổi là không biết ngoại ngữ. Đau lắm thèm lắm, đành theo những lớp học thêm. Nhưng ở Hà Nội của chúng tôi những năm ấy, giá có biết tiếng sẵn cũng không có sách mà đọc, việc giao tiếp với nước ngoài bị hạn chế đến mức tối đa thì làm sao mà học được? Tôi nhớ có một dạo đi đâu trong túi xách của Xuân Quỳnh cũng có tập bài tiếng Pháp, ngoài ra không thể nhớ hết bao nhiêu lớp chị đã theo học. Bởi lẽ học ít kết quả nên các lớp đó cũng teo dần và ai muốn học lại theo những lớp mới, cả đời đi học mà cũng cả đời chưa thể gọi là biết ngoại ngữ để dùng trong công việc. 
Rộng hơn câu chuyện ngoại ngữ, Xuân Quỳnh còn không có may mắn được học hết phổ thông mà đi công tác, tức là đi kiếm ăn sớm, và về sau gặp nhiều khó khăn trong việc tự học. Trong khi một số nhà thơ khác cũng xuất thân tương tự nhưng hồn nhiên vào đời rồi chai lỳ đi, chẳng thiết đọc nữa, chẳng những thế quay ra hoặc ngấm ngầm hoặc lớn tiếng tự hào về sự không cần học của mình thì ngược lại Xuân Quỳnh lấy làm tiếc cho mình một cách chân thành. Thành thử có một điều khiến tôi cảm động, ấy là, trong khá đông những người bạn viết văn của tôi, thì đây là một trong vài ba người biết cho sự cần thiết của nghề phê bình văn học mà tôi theo đuổi. Bao giờ nghe tôi kể rằng vừa đọc được một quyển sách hay, nét mặt chị cũng thoáng qua một nét buồn như ân hận rằng lẽ ra mình cũng phải đọc chính quyển sách đó. Thế nhưng cuộc sống xô đẩy rồi cũng phải quen dần và vẻ lam lũ đã là một phong cách ôm trùm chi phối cuộc sống cũng như công việc viết lách. 

Không viết thì phí mất! 
Hồi trước 1954, ngôi nhà 96 phố Huế vốn là một khách sạn (đâu tên cụ thể là Hotel Lục quốc thì phải). Được cái tiện là ở đó có nhiều loại phòng to nhỏ khác nhau. Bởi vậy, khi trở thành khu tập thể của Hội liên hiệp văn học nghệ thuật, nơi đây có đủ cả những phòng khá to 25-30 mét vuông chia cho các cán bộ phụ trách hoặc những gia đình đông con, lại có những phòng toen hoẻn 9-10 mét vuông chia cho những hộ ít người hoặc các cán bộ lương thấp. 
Vào khoảng đầu 1968, Xuân Quỳnh và gia đình bốn người (cả chồng con lẫn bà mẹ chồng) được chia hai căn phòng nhỏ như thế ở hai tầng khác nhau. Và một trong hai căn phòng ấy - cái ở tầng ba chứ không phải cái ở tầng tư - kiêm luôn mấy việc: phòng ăn, phòng ngủ, phòng tiếp khách. Thời chống Mỹ mọi người nghèo lắm, các gia đình làm gì có ti-vi với đủ loại phương tiện giải trí như bây giờ. Suốt ngày chạy vạy đong cho được cân mì hoặc mua cho được lạng thịt và lo hết việc cơ quan trở về đã đủ mệt rồi, cánh cán bộ nhà nước nhiều buổi tối không nghe đài cũng chỉ ngồi dông dài tán chuyện thời sự, cuộc sống uể oải cầm chừng lây ngay cả vào đám người làm nghề sáng tạo, thành thử thấy ai làm được cái gì cho ra tấm ra món cũng thấy quý. Một lần sau khi được tác giả đọc cho nghe một bài thơ đáng gọi là hay, mà chỉ vừa nghe nói là định viết vào tối hôm trước, tôi hỏi lại Xuân Quỳnh: 
- Bà làm vào lúc nào thế này?
- Hôm qua tiễn các ông về, rồi buông màn cho thằng cu xong, tôi mới lấy giấy bút ra, lúc kê lên đầu gối lúc bò ra sàn mà viết. Gần sáng mới chợp mắt được một lúc.
- Sao tự nhiên lại hăng hái thế?
- Sống từ sáng đến chiều vớ vẩn rồi lúc bắt đầu quay về với thơ chỉ nghĩ “không viết thì phí mất!”. Thế là lại phải cố mà viết bằng được. Chỉ sợ bao nhiêu nỗ lực của mình chẳng đi đến đâu chỉ sản sinh ra được những bài thơ dở, khiến người đọc người ta dửng dưng thì cũng buồn lắm. 

Trước tiên là viết cho mình  
Hẳn ai cũng biết mối quan hệ giữa thơ và cuộc sống hàng ngày của người làm ra những bài thơ ấy là một trong những khâu thiết cốt đối với nghề thơ. Thế nhưng từ chỗ biết vậy đến chỗ có cách xử lý đúng mức là cả một chuyện rắc rối và nhiều người chỉ nhờ may mắn mà đến được với con đường đúng đắn. Xuân Quỳnh chính là một trong những người đó. 
Chẳng hạn, chúng ta đều biết những địa danh được nói tới trong một sáng tác (tên một con sông, một dãy núi), vốn không phải là một cái gì quan trọng. Trong một bài thơ tình, xã Bảo Ninh hay xã Quang Phú, núi Cánh Diều hay núi Mây Bay thì cũng thế. Không thiếu gì người, không đến biên giới bao giờ vẫn sẵn sàng đề dưới bài thơ phục vụ kịp thời của mình mấy chữ: “Biên giới Tây Nam ngày...” cốt để đăng báo. Hoặc lịch sử thơ ca còn ghi lại không ít trường hợp những bài thơ xuất hiện vì cớ này song lại được tác giả lái sang một ý nghĩa đâu đâu mà bài thơ vẫn đọc được. 
Nhưng Xuân Quỳnh sống theo một niềm tin khác, và một hành động mang tính tiểu xảo như vậy bị chị coi là gian manh, không thể chấp nhận được. Trước khi đưa ra bài thơ để mọi người cùng đọc và hy vọng rằng nó cần thiết cho họ, chị đến với thơ để nói về mình. Nhìn vào con người và sự vật chung quanh, chị thấy có bản thân ở bên trong và đấy là cái hích đầu tiên buộc chị cầm bút. Những người có quen riêng tác giả Gió Lào cát trắng đều biết chị có thói quen diễn tả tâm trạng của mình qua thơ đúng đến từng khía cạnh tưởng là nhỏ nhặt. Mỗi bài thơ ra đời, đều có cái lý lịch của nó. Nó chỉ ra đời với những nguyên cớ cụ thể mà người viết muốn đặt vào nó, gửi gắm tâm sự của mình trong nó. Nếu chắp các bài thơ đó lại, người ta có thể có cả cuộc đời Quỳnh. Đấy không phải là một sự khoe khoang hay láu cá nào hết. Xuân Quỳnh buộc phải viết vậy, hàng ngày, chị đã nghĩ bằng thơ, sống bằng thơ, dùng thơ để tự hiểu mình. Lúc làm xong bài thơ cũng là lúc nhà thơ thấy lòng vợi đi ít nhiều, vì những dòng chữ kia như biết chia sẻ với tác giả của nó, cả những vui sướng cực độ, lẫn những đau đớn đến xé ruột xé lòng. Một lần nào đó chị tự hào bảo riêng với tôi: 
- Nói được niềm vui nỗi khổ của chính mình, tôi cảm thấy có cái sung sướng không mấy ai có! Như người khác không được yêu mà mình được yêu, như người khác chỉ biết im lặng mà mình biết nói, và nói lên được thành tiếng, hỏi không vui sao được? 

Nhạy cảm: ưu thế và tai vạ 
Có một bài thơ Xuân Quỳnh viết mang tên Con yêu mẹ, ở đó khi kể lại cuộc trò chuyện giữa hai mẹ con, tác giả ghi lại mấy câu vui vui của đứa trẻ, nào là Con yêu mẹ bằng trời xanh / Rộng lắm không bao giờ hết, rồi vân vi đủ thứ, và kết lại bằng câu Con yêu mẹ bằng con dế. Một ý tưởng đột ngột mà người ta chỉ bắt gặp ở trẻ con!  
Cái cách đùa cợt của đứa trẻ mà nhà thơ ghi lại trong câu thơ ấy thực ra rất gần với cách nghĩ của chính Xuân Quỳnh hàng ngày. Trước mắt anh chị em cùng cơ quan hoặc là hàng xóm láng giềng, nhà thơ thường hiện ra như một con người hồn nhiên cởi mở. Chị bắt chước cách nói của người nọ, nhại những ý nghĩ buồn cười của người kia. Nhiều khi cùng chứng kiến một khung cảnh, chưa ai cười được thì con người nhạy cảm ấy đã nghĩ ra cớ để cười. Đi đến đâu là chị mang theo đến đấy sự vui vẻ, chẳng cần dụng công chị cũng kéo được mọi người bỏ công bỏ việc ngồi nghe.  
Đó là nhờ cái tài ăn nói bẩm sinh: dù thuật chuyện mình hay chuyện người thì chị cũng biết làm bật lên cái khía cạnh hài hước của nó, và mang lại cho nó một vẻ sinh động. Thậm chí còn có thể nói có một con người văn xuôi trong cách nhìn đời của nhà thi sĩ.  
Trong đời sống cũng như trong sáng tác, một sự nhạy cảm như thế là rất cần thiết. Nếu như nó lại được dắt dẫn bởi một lý trí sáng suốt thì sẽ có thể dẫn người ta đi rất xa. Song có một điều ngược lại mà ít ai biết: nó cũng có thể là nguồn tai hoạ và khi đó da càng mỏng càng đau, kẻ nhạy cảm có nghĩa là kẻ chuốc lấy nhiều xót xa ê chề hơn người khác. Khốn thay đó lại là chỗ yếu không thể khắc phục của Xuân Quỳnh! Sắc sảo khi bàn tính hộ người song trong việc mưu cầu hạnh phúc riêng thì con người ấy thường vụng dại. Đọc thơ của chị, nhất là thơ tình một hồi, chúng ta thấy hiện lên hình ảnh của một người yêu rất nhiều mà nhận lại chả bao nhiêu, đơn độc đi trong cuộc đời, và lúc nào cũng cảm thấy phía trước là bất hạnh, là bão tố.  
Ở trên tôi đã kể lúc cao hứng lên, Xuân Quỳnh từng tự hào vì nỗi được nói to lên giữa cuộc đời im lặng. Thế nhưng, những lúc vất vả quá - vất vả với nghĩa bế tắc, dằn vặt, vất vả về mặt tinh thần - Xuân Quỳnh lại quay ra mát mẻ: 
- Thỉnh thoảng có người, thấy mình khổ quá, mà vẫn làm được thơ, tỏ ý an ủi: “Bà cứ ráng chịu, rồi chắc có thơ hay”, tôi đã trả lời thẳng thừng: “Tôi sẵn sàng từ bỏ hết những bài thơ kia đi, miễn là tôi khỏi khổ!”.


Khao khát và lầm lỡ  
Trong cơn say sưa bộc bạch,  nữ  sĩ Trùng Dương khi trả lời  một cuộc phỏng vấn trên bán nguyệt san Văn ra  ở Sài Gòn khoảng 1973 từng tự nhận: “Nếu còn tin tưởng ở Thượng đế, tôi sẽ cám ơn Người đã ban cho tôi một cuộc sống gồm có những dịp lầm lỡ, cộng thêm với một chút hơi nhiều lý trí, cộng thêm với một chút hơi nhiều lòng tham vọng và ý chí ngạo mạn”. 
Tuy ở một phương trời khác, nhưng Xuân Quỳnh có thể hoàn toàn chia sẻ với những tâm sự kiểu đó: Cái chính là ở con người này có quá nhiều tham vọng. Những chùm hoa dại trên núi Hoàng Liên nói lên những ước ao bình thường nhất mà vẫn không thành. Con đê biển tượng trưng cho sự chịu đựng, tức một sự hy sinh kể ra cũng cần thiết, nhưng lại tước đi của người ta biết bao mơ ước! Dù biết rằng những hạn chế ấy là không tránh khỏi, song trong lòng người làm thơ vẫn dậy lên những khao khát thay đổi. Có cảm tưởng với Xuân Quỳnh sự ham sống là một bản năng thường trực và càng không được thoả mãn càng thèm muốn. Ngay trong những ngày sống hạnh phúc, con người đó vẫn cảm thấy là phải mau tận hưởng, nếu không, nó sẽ qua đi rất nhanh. Cuộc sống vì thế bao giờ cũng căng lên như những sợi dây đàn, người ngoài nhìn vào thấy sợ hãi thay cho người trong cuộc, nhưng lại hiểu rằng đó là cội nguồn của sáng tạo.
Giữa đám bạn bè cùng nghề, người thi sĩ này thường tự nhủ: “Đối với người sáng tác, không gì sợ bằng sự nghèo nàn. Nghèo trong cảm xúc nhận xét thì không thể tha thứ được”. Trong đời sống hàng ngày cũng như trong sáng tác, không chịu được cái gì trung bình nhợt nhạt. Yêu hay ghét, đều phải hết lòng. Thà thái quá còn hơn bất cập. Và bởi lẽ xúc cảm là cụ thể, là của từng giây phút một, nên chúng thường xuyên thay đổi, một sự thay đổi đột ngột khiến người ngoài nhìn thấy chóng mặt. 
Một người bạn của Quỳnh lúc trẻ là Bằng Việt đã diễn tả rất hay lối cảm xúc đó của tác giả Gió Lào cát trắng. Bài thơ Người cùng đi một đường chỉ có cái phụ đề “Gửi một người làm thơ cùng lứa tuổi” nhưng ai đọc cũng có thể đoán ngay là đề tặng Xuân Quỳnh:

Lại con đường đỏ rực dưới cây xanh
Đi như lao, như lửa cháy trong mình
Nhịp thơ bạn bỗng bồi hồi mạch đập
Những sườn dốc, rồi những cua vòng gấp
Băng trong đời, như bạn đã từng quen
...
Vẫn đó - gió Lào cát trắng trong thơ
Những thượng nguồn sông, buồn vui bất chợt
Như lòng bạn, lũ trào dâng đột ngột
Cuốn mình đi, đắp những bãi bờ xa

Về phần mình, tôi nhớ những ứng xử của Xuân Quỳnh trong đời sống hàng ngày, nét mặt bồn chồn của chị khi chị gặp một người này, khi mong được tham gia một chuyến đi kia, hoặc nỗi sung sướng và thái độ trân trọng, quý hoá, khi được cầm trên tay một cuốn sách mà từ lâu đã nghe tiếng. Có thể nói đấy là những lúc con người ấy biết sống hết từng phút giây một! Sự thiếu nhẫn nại toát ra ở cái run rẩy của giọng nói. Vẻ sốt sắng hiện lên trên nét mặt. Tham lam quá đi, mà sự tham lam ở đây lại lộ liễu quá đi - người ta có thể nhận thấy như thế, và chính Xuân Quỳnh cũng đã cảm thấy như thế. Nhưng bởi lẽ, nỗi ham muốn đã lên đến cực độ, lại hiểu rằng, vì thơ, vì sáng tác, sự ham muốn của mình là không vụ lợi (nghĩa là người ta cũng dễ tha thứ), nên Xuân Quỳnh vẫn sống vậy. Một cách sống luôn luôn mang lại những sung sướng, và đau khổ hơn người. Câu chuyện sau đây minh chứng cho điều đó: Nhà thơ có một người chị là Đông Mai hiện đang dạy học ở thành phố Hồ Chí Minh. Một lần, người viết bài này  từ Hà Nội vào SG,  tới thăm chị Mai. 
- Thế nào cậu, dạo này ngoài đó, Quỳnh nó sống thế nào? Vui hay buồn? 
 Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Em gái chị là một người đặc biệt, nên vui cũng vui hơn người khác mà buồn cũng buồn hơn người khác, làm sao trả lời cho rành rọt được. 
Khi nghe kể lại như vậy, Xuân Quỳnh chỉ cười, không phản đối. Chắc trong thâm tâm Quỳnh nghĩ: “Đúng là giời đày mình, nhưng có thế, mình mới viết được”. 

Ảo tưởng dai dẳng  
Từ khi cho in những bài thơ đầu tiên, cho tới giữa năm 1988, sửa soạn tập thơ cuối cùng, Xuân Quỳnh đã có một chặng đường thơ khoảng một phần tư thế kỷ. Nhìn vào thơ, thấy con đường con người này đi khá thông thoáng: cứ đều đều vài ba năm lại có một tập thơ ra đời. Trong khi nhiều người bạn cùng lứa đã bỏ cuộc, nhiều người già đi, cũ đi, tự lặp lại mình trong thơ thì trên đại thể thơ Xuân Quỳnh vẫn giữ được cái duyên riêng, và có được cái hơi trẻ trung, tươi tắn. Chẳng những thơ bầu bạn với Xuân Quỳnh, thơ còn nâng cao con người nhà thơ lên. Qua thơ, người ta bắt gặp một Xuân Quỳnh hào phóng, nồng nhiệt, tha thiết với cuộc sống. 
Tuy nhiên cũng từ đây cách suy nghĩ của Xuân Quỳnh có một khía cạnh mà từ lâu tôi đã muốn coi như một nhược điểm, ấy là chủ quan, chủ quan đến mức quá tự tin. Biển quen theo những quy luật của mình, một câu thơ như vậy buột ra trong một bài thơ viết về biển, và những người có quen biết đều hiểu rằng đó là lúc nhà thơ nói về bản thân song đều lo lắng hộ: những ngạo nghễ kiêu hãnh kiểu ấy nó có phần phỉnh nịnh tuổi trẻ nên lại càng khó gạt bỏ.

- Một tình yêu như thế vẫn y nguyên
- Chỉ còn lại một màu hoa rất trắng
- Đất qua rồi những yêu thương
 Có chăng lời hát vẫn còn mà thôi
- Thời gian của ta không bao giờ mất

Không gì khác đó chính là những ảo tưởng. Những ảo tưởng trong thơ nhưng cũng là ảo tưởng trong đời sống. Những ảo tưởng này vốn không chỉ là của riêng của Xuân Quỳnh mà là của hàng loạt người cùng tuổi, song nếu ở ngoài đời người ta chỉ nói vậy thôi rồi người ta vẫn thực dụng vẫn kiếm chác, thì nhà thơ của chúng ta sống với nó một cách chân thành, đấy chính là đầu mối của nhiều bi kịch mà chị sẽ phải đón nhận.
 Trong số những bài thơ mang ảo tưởng của Xuân Quỳnh, tôi nhớ hơn cả đến một bài mang tên Có một thời như thế nhà thơ cho in vào đầu 1985. Cái thời nói ở đây là quá khứ của mỗi chúng ta. Tác giả đã bắt rất trúng cái thần của nó khi miêu tả nó trong sáng, nó đẹp theo kiểu mơ ước viển vông niềm vui thơ dại hoặc luôn hy vọng để rồi luôn thất vọng, tôi đã buồn đã khóc những không đâu... Ngoảnh lại cái thời đó, nhà thơ thấy mình đã thay đổi: mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc. Cùng cảm hứng về sự già đi của bản thân là suy nghĩ chung về sự chuyển biến của đời sống Tôi biết chắc mùa xuân rồi cũng hết/ hôm nay non mai cỏ sẽ già. Và sau hết nhà thơ kêu gọi mọi người không tự mê hoặc mình bằng quá khứ mà hãy hướng về cuộc sống trước mắt:  
 Quá khứ đáng yêu quá khứ đáng tôn thờ
 Nhưng không phải là điều em ao ước  
Có điều trong lúc tỉnh táo như vậy tác giả vẫn để chen vào hai câu thơ nói về mình một cách ảo tưởng: 
 Em biết quên những chuyện đáng quên
 Và biết nhớ những điều em phải nhớ  
Khi nghe tôi biện luận: “Người mà làm chủ được hoàn toàn tình cảm của mình như vậy thì chỉ còn là cái máy”, nhà thơ chỉ cười xoà, song tôi biết trong thâm tâm chị hiểu “rằng quen mất nết đi rồi”, làm sao mà vượt lên khỏi cái chương trình mà thời đại đã đặt vào mình cho được. 

 Những gì còn lại  
Thời gian vốn có sức ám ảnh với tâm trí nhà thơ này. Ngay từ khi mới trên hai mươi bắt tay làm những bài thơ đầu tiên về tình yêu trong bài Chồi biếc, chị đã viết đại ý mình chỉ là một phần tử nhỏ nhoi trong dòng người vô tận và tự nhủ sẽ có lúc hết phiên để nhường cuộc đời đẹp đẽ này cho những cặp tình yêu khác. Vào khoảng những năm tám mươi, tức khi đã bước sang tuổi bốn mươi, thì cảm giác ấy càng nẩy nở thường trực. Bài Hoa cúc láy đi láy lại nỗi đau xót âm thầmkhi tự thấy mình không còn được như hôm qua:

 - Bao mùa thu hoa vẫn vàng như thế
 Chỉ em là khác với em xưa
.....
 - Bao ngày tháng đi về trên mái tóc
 Chỉ em là khác với em thôi

Cũng từ đây trong thơ đã len vào những giai điệu khác:

- Đường tít tắp mà ngày đang xế bóng
Mệt mỏi chăng hỡi người bạn đồng hành?

Sự mệt mỏi ấy trước tiên là đến từ phía cuộc sống, những lo toan chợ búa gia đình chồng con mà càng những năm gần đây, với Xuân Quỳnh, càng là một gánh nặng. Nhưng có thể là còn từ phía sáng tác nữa chăng? Tôi nhớ những lần trò chuyện, khi nào nghe tôi kể có đọc thêm được quyển này quyển kia, là y như Xuân Quỳnh có vẻ buồn hẳn đi. Hình như một người nhạy cảm như chị một lúc nào đó, đã mang máng nhận ra rằng trong thơ mình đã đi đến cùng trên con đường đã chọn, mà đi tìm những nẻo lối mới thì chưa biết ở đằng nào. Những đòi hỏi học thêm, đọc thêm, những đòi hỏi tìm sự bồi bổ của văn hoá nói chung, đến tuổi này càng thấy bức thiết, mà sức lực đâu được như xưa, thời gian còn lại rất ít. Cái bi hài kịch mà mình nhìn nhận thấy ở không ít bè bạn - bi hài kịch của những người được một hai cuốn sách đầu, đã trở thành nhà thơ nhà văn rồi, thì sống lêu têu vạ vật chả còn viết được cái gì nên hồn - cái bi hài kịch ấy, lúc nào cũng có thể đến với mình chăng? Nếu thế thì buồn, thì mỏi mệt cũng là điều khó tránh.

Còn nhớ khoảng 1985-1986, thỉnh thoảng tôi lại nghe Xuân Quỳnh thở ra những điều ngán ngẩm:

- Dạo này tôi rất chán. Nhà cửa chật chội, nóng nảy, bận bịu...

Tôi cũng hùa theo:

- Đời sống khổ quá, có lúc tôi đã tự nhủ: Chết đi, cũng chả có gì phải tiếc.
- Tiếc thì không tiếc, nhưng nghĩ có lúc cuộc sống này không có mình nữa cũng buồn.

Đến đó, câu chuyện của chúng tôi chuyển sang một hướng khác. Nhưng ra về, mà tôi cứ nghĩ vân vi mãi, chẳng lẽ người kêu rằng chán đời, chán làm thơ đó, lại là Xuân Quỳnh? Bởi những tập sách còn kia, giở trang nào ra chẳng bắt gặp một con người thèm yêu, thèm sống, và một trong những bài thơ hay nhất của người đó mang tên Nếu ngày mai em không làm thơ nữa:

- Và trời xanh xin trả cho vô tận
Trời không xanh trong đáy mắt em xanh
Và trong em không thể còn anh
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa.

Điều gì đã xảy ra với người làm thơ đó và những người cùng lứa khác? Lâu nay, cứ tưởng mình và bạn bè mình còn trẻ, nay hoá ra ở ngưỡng cửa của tuổi năm mươi rồi, những điều lúc trẻ, tưởng là xa lạ, sự sống, cái chết là điều phải bàn rồi. Đã đến lúc mình có thể chết rồi chăng? Hay chết cũng chưa thể là một sự giải thoát đích thực, để chuẩn bị cho một cái chết xứng đáng phải tiếp tục sống nữa, sống mãnh liệt hơn. Chưa kịp bàn thêm với nhau thì Xuân Quỳnh đã đi xa rồi, và giờ đây, đối với tôi, chỉ còn có cách tiếp tục tìm câu trả lời ở những dòng thơ người bạn đó đã viết.

Viết khoảng 1988-93

Đã in Cây bút đời người -2002
Mới hơn Cũ hơn